Dân Chúa ? | Liên Lạc | RSS Feeds
Tháng 10/2020
Bài Mới
- Hậu quả cuộc bầu cử 2020: Giới truyền thông mất mặt, đảng Dân Chủ thoái trào
- Hậu quả cuộc bầu cử 2020: Những ảnh hưởng với các chính sách Công Giáo
- Nghi Thức Trừ Tà Trên Đà Gia Tăng, Đặc Biệt Là Sau Những Cuộc Biểu Tình
- Tổng thống Trump tuyên bố chiến thắng và cảnh báo trò gian lận
- ĐTC ban hành tự sắc liên quan đến việc lập các hội dòng giáo phận
- Tòa Thánh kêu gọi bảo vệ tính chất thánh thiêng sự sống con người
- Giáo hội Pháp phản đối lệnh hạn chế cử hành Thánh lễ có giáo dân tham dự
- Giáo hội Pakistan vui mừng vì Arzoo, 13 tuổi, bị bắt cóc và ép theo Hồi giáo, được giải cứu
- ĐTC Phanxicô: Cầu nguyện là bánh lái hướng dẫn cuộc đời chúng ta
- ĐTC và các giám mục trên thế giới đau buồn về các vụ tấn công ở Vienna
- Một linh mục California đã được huyền chức sau khi không công nhận Đức Thánh Cha Phanxicô
- Ở đất nước nơi từng được xem là Công Giáo nhất hoàn cầu, linh mục nào cử hành thánh lễ là đi tù
- Không khí cuộc bầu cử ngày 03 tháng 11. Các nước Á Châu hướng về Hoa Kỳ hồi hộp theo dõi kết quả
- Đức cha Mandagi kêu gọi giải quyết vấn đề Paqua bằng đối thoại
- HĐGM Bắc Phi mời gọi các tín hữu xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn
- Các tổ chức tôn giáo Philippines kêu gọi điều tra quốc tế về vi phạm nhân quyền
- ĐHY Schönborn kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân trong các vụ nổ súng ở Vienna
- Sáng kiến lần hạt toàn cầu cầu nguyện cho các thai nhi đã bị phá bỏ
- ĐTC dâng lễ cầu nguyện cho các tín hữu qua đời
- Làn sóng phản đối gia tăng tại Pakistan sau khi Toà án đồng thuận với vụ bắt cóc trẻ vị thành niên Công giáo
- Tuyên bố chung giữa Công giáo và Hồi giáo tại Bỉ bày tỏ mong muốn tôn trọng lẫn nhau
- Tính Thành Hiệu Của Bí Tích Giải Tội Tin Lành
- Thủ đô Vienna của Áo bị khủng bố Hồi Giáo tấn công
- Nguyên văn lá thư của Tòa Thánh giải thích tuyên bố của Đức Phanxicô về việc sống chung đồng tính
- Tòa Bạch Ốc đã bị bao vây bởi những người chống Tổng thống Trump
- Đức Tổng Giám Mục Philadelphia cầu nguyện, kêu gọi hòa bình sau nhiều ngày bất ổn
- Biden chào hàng ‘cảm hứng’ đức tin Công Giáo, mặc dù tiếp tục ủng hộ phá thai và đòi hạn chế tự do tôn giáo
- Tòa án Brazil cấm một tổ chức vận động phá thai dùng tên “Công giáo”
- Một ngàn giáo xứ chầu Thánh Thể trong ngày Hoa Kỳ bầu Tổng thống
- ĐTC bổ nhiệm Đức tổng giám mục Tomasi làm đặc sứ của ngài tại Hội Hiệp sĩ Malta
- Lễ phong chân phước cho cha Michael McGivney, đấng sáng lập Hội Hiệp sĩ Columbus
- Ý Nghĩa Bức Họa Chính Thức Về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Ngọn đuốc cho đời - Vì sao cho đạo
- Lễ Các Thánh Nam Nữ khai mạc tháng cầu cho các đẳng linh hồn tại Vatican
- Về Cội
- Tự Tình “Tháng Mười Một Các Đẳng”
- Phép lạ ngoạn mục, Y khoa không thể giải thích dẫn đến lễ Tuyên Chân Phúc cho Cha McGivney hôm 31/10
- Giáo hội và thế giới cần tình mẫu tử và nữ tính của Đức Mẹ Maria
- Phim mới về Cha Thánh Maximilian Kolbe
- Vị Hồng Y tân cử đang trông coi một Giáo phận chỉ có ba linh mục!
Sách Online
Khái quát Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu
§ Lm Anrê Đỗ xuân Quế, OP
Từ sau Công đồng, Kinh thánh được đề cao và khuyến khích rất nhiều. Đã có cả một hiến chế vĩ đại để nói về vấn đề này. Đó là hiến chế Dei Verbum. Nhiều sách vở, tài liệu biên soạn hay phiên dịch được phổ biến tại Việt Nam trong những năm gần đây. Thật là điều đáng mừng. Nhưng người ta có đọc hay không, đó mới là vấn đề. Vì vậy, để những người không có thời giờ hay không muốn đọc nhiều, xin trình bày khái quát đôi nét về cuốn Tin Mừng thứ nhất này như sau:
1. Bài tựa và lời kết
Tuy không có bài tựa và lời kết
rõ rệt như Tin Mừng Lu-ca, nhưng Tin Mừng Mát-thêu cũng cho biết ý nghĩa trong
lời tựa bản tường thuật cuộc đời công khai của Đức Giê-su (chương 1+2) và trong
lời kết sách: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều thầy đã truyền cho
anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Mt
28,18-20)
Trong đoạn kết này, có hai ý tưởng được nhấn mạnh, đó là uy
quyền của Chúa Giê-su và vai trò của các môn đệ.
1,1 Cuộc đời và giáo
huấn
Như các sách Tin Mừng khác, Tin Mừng Mát-thêu cũng kể lại cuộc
đời và giáo huấn của Đức Ki-tô, nhưng theo cách thế riêng và phác họa một nền
Ki-tô học nguyên thủy ở đây. Đấng Em-ma-nu-en ra đời và sẽ ở cùng các tín hữu
cho đến tận thế (28,20) với tư cách là Thầy dạy như xưa kia khi còn tại thế, và
sẽ còn tiếp tục mãi qua các trung gian của Người, với tất cả quyền hành nhận
được từ Thiên Chúa, vì Chúa Cha đã trao tất cả cho Người (11,27)
Đúng
theo Kinh thánh, Đức Ki-tô đã bị người Do thái khước từ và Tin Mừng được loan
báo cho dân ngoại. Điều này, bài tựa muốn trình bày một cách vắn tắt nhưng đầy
đủ. Thật thế, trong bài tựa, tác giả không có ý thuật lại các biến cố cho bằng
dựa vào các truyền thống, để làm nổi bật ý nghĩa cuộc đời tại thế của Đấng đã từ
trong đám kẻ chết chỗi dậy. Thánh Giu-se đã nhân danh It-ra-en và dòng tộc
Đa-vít đón nhận Hài nhi Giê-su. Giê-ru-sa-lem, các thượng tế và Hê-ro-đê đã
không đón nhận, lại tìm cách giết đi. Nhưng Hài nhi đã thoát cơn sát hại và đến
cư ngụ tại Ga-li-lê, nơi tiêu biểu cho miền đất của dân ngoại. Như thế, mầu
nhiệm chết và sống lại đã được báo trước trong câu chuyện bi đát này và Tin Mừng
đã được rao giảng cho dân ngoại.
1,2 Nước Trời
Đức Ki-tô đã
giao cho Nhóm Mười Một nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng và kết nạp môn đồ từ khắp
nơi. Trước hết, lời phải loan báo là lời về Nước Trời. Đây là thành ngữ đặc biệt
của Mát-thêu để nói về Nước Thiên Chúa. Quả vậy, Thiên Chúa là Chúa Tể luôn luôn
hiện diện với dân Người. Vào những giai đoạn đặc biệt, Người đã dùng quyền năng
can thiệp rõ ràng vào lịch sử. Cách nói về Thiên Chúa như thế, một phần nào đã
dựa vào chế độ chính trị của Ít-ra-en trong suốt các thế kỷ. Đế quốc Rô-ma chiếm
đóng Do thái càng làm tăng thêm niềm mong ước của dân nước này muốn thấy Thiên
Chúa ra tay oai hùng can thiệp vào lịch sử của họ. Hồi ấy, người Do thái ưa nói
rằng chỉ Thiên Chúa mới là vua của họ. Đức Ki-tô giữ lại thành ngữ Nước Trời
không theo nghĩa chính trị mà chỉ có ý diễn tả cách thế Thiên Chúa can thiệp vào
đời sống của dân Người. Có khi thành ngữ này còn được hiểu một cách tuyệt đối
nữa, như khi Đức Ki-tô loan báo các mầu nhiệm Nước Trời (13, 11) trong khi Lu-ca
và Gio-an lại dùng thành ngữ ấy để diễn tả và giải thích đời sống vĩnh cửu hay
nước thiên đàng. Tuy nhiên, thành ngữ ấy vẫn còn mơ hồ trong Tin Mừng Mát-thêu.
Thường thì phải dịch Nước Trời là vương quyền hay vương quốc, nhất là khi có một
động từ nào đi trước. Vì vậy, Nước Trời không chỉ nói về tương lai mà còn bao
hàm nghĩa hiện tại. Các dụ ngôn về Nước trời cho thấy đặc tính này. Nước Trời
khởi đi từ cử chỉ của người gieo giống, phải sinh hoa kết quả cho đến thời sau
hết một cách nhiệm mầu qua nhiều thất bại. Vì mang theo viễn tượng cánh chung
nên Nước Thiên Chúa không đơn thuần đồng hóa với Hội thánh, cho dù từ ngữ này
(16,18; 18,18) được dùng để chỉ các môn dồ rao giảng Nước Trời và làm được những
dấu chỉ về Nước đó. Luật sống của cộng đồng này là phục vụ (16,19; 18). Dù biết
rằng Nước Trời đã được khai nguyên, nhưng cộng đồng vẫn cầu nguyện mãi cho
“triều đại Cha mau đến” (6,10)
2. Cấu trúc văn
chương
2,1 Lối hành văn
Mát-thêu đã dựa vào nguồn tài
liệu chung cho cả Mác-cô và Lu-ca để soạn sách Tin Mừng. Nhưng trong một cái
khung tổng quát, có nhiều nét giống nhau, Mát-thêu đã đưa ra một bản tường thuật
rất khác với Mác-cô và Lu-ca, không những vì có những tài liệu riêng dồi dào
(1-2; 5,7; 11,1-30; 13,24-30.6-52; 18,10-25; 28,9-20) mà còn vì sử dụng tài liệu
chung một cách tự do, độc đáo (Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Mt 14.13-21; Mc 6,32-44;
Mt 8,23-27; Mc 4,35-41; Mt 9,9-13; Mc 2, 13-17; Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Mt 24,
1-36; Mc 13,1-37)
Ngoài ra, Mát-thêu lại còn dùng một tập ghi chép các
lời của Chúa Giê-su như trong các đoạn sau đây: 3,7-10; 7,7-11; 11,4-6;
12,43-45. Thật khó xác định hình thức của những tài liệu này, nhưng khi đối
chiếu với Mác-cô và Lu-ca, người ta có thể thấy lối cấu trúc riêng biệt của
Mát-thêu.
Trừ 4,17 và 16,21, các câu nối kết thời gian thường không có
giá trị. Các chỉ dẫn về không gian cũng mơ hồ, nên khó có thể dựa vào đấy mà vẽ
ra một lộ trình tỉ mỉ. Tuy nhiên, độc giả nên thấy đây là câu chuyện về đời sống
của một con người chứ không phải chỉ là một mớ các câu chuyện thu góp lại.
Mát-thêu thích dùng một từ ngữ để đóng khung một câu chuyện hay một câu cách
ngôn và như vậy, tác giả đã dùng lối văn ngụ ngôn, thí dụ trong 6,19 và 6,21 rồi
7,16.20; 16,6.12. Ngài cũng không ngại dùng một công thức (8,12; 22,13; 25,30,
một kiểu nói về cùng một thực tại (8,2; 9,4.18;12,25 hay cùng một lời nơi nhiều
cửa miệng khác nhau (3,2; 4,17; 10,7) Các bài tường thuật của ngài thường vắn
tắt, thay vì kể những chi tiết hóm hỉnh như Mác-cô, ngài thường đưa ra những lời
huấn giáo nhẹ nhàng, nhiều khi có tính phụng vụ (thử so sánh Mt 8,14-15 với Mc
1,29-31).
Mát-thêu rất ưa các con số 2,3,7 và thường thu gọn các lời
giảng giống nhau vào một chỗ như đem kinh Lạy Cha đặt vào chỗ những lời nói về
sự cầu nguyện. Chương 8,17 đã gom nhiều phép lạ rồi, nhưng Mát-thêu còn thêm hai
chuỗi phép lạ nữa (8,23-9,8; 9,18-34)
2,2 Dàn bài
Có thể
nêu lên ba kiểu dàn bài trong sách Tin Mừng Mát-thêu
2,2 Dàn bài theo
địa lý
Trước hết, Mát-thêu nói đến tác vụ của Đức Ki-tô ở Ga-li-lê
(4,12-13,58) rồi đến hoạt động của Người ở miền giáp giới Ga-li-lê và trên đường
lên Giê-ru-sa-lem (14,1-20.34) và sau cùng là giáo huấn, cuộc thương khó và phục
sinh tại Giêru-sa-lem (21,1-28,20)
2,3 Dàn bài theo năm diễn
từ
Có người lại đặt ra một dàn bài theo năm diễn từ, vì Mát-thêu đã
kết thúc mỗi diễn từ bằng một câu. Làm như vậy sẽ có năm khối thu tóm hầu hết
các lời giáo huấn của Đức Ki-tô. Nhưng không biết có thể phân khối theo thứ tự
hết tường thuật rồi đến diễn từ không. Đối với chương 11,12 và 13 thì rõ đó, dù
không biết có thể gọi chương 11 và 12 là tường thuật không, vì đây cũng là những
diễn từ ngắn tạm xếp được trong không gian và thời gian. Còn đối với những khối
khác, khó có thể nối kết một cách chặt chẽ giữa 3, 4 và 5, 7, giữa 14, 17 và 18
và phải gò bó bản văn mới có thể nối kết 8-9 với 10 hoặc 19-23 với 24-25. Do đó,
sách Tin Mừng Mát-thêu không phải là một quyển giáo lý có xen các chuyện, nhưng
là sách nói về một con người và sách ấy có giá trị giáo lý.
Vì thế, nhiều
người khác lại nghĩ rằng Mát-thêu đã muốn dùng một cái khung địa lý để thuật lại
cuộc đời và sứ mệnh của Đức Ki-tô. Nếu để ý đến các bản tóm lược (4,12-27; 12,
15-23), các câu liên ý (12,15-21; 3,15-17; 11,1-12.50; 8,1-934), các chú thích
địa lý rõ ràng (8,1-9,34;14,1-16.20; 20,29-28,20), các nhóm cử tọa (8,1-9,34)
các thù địch (11,1-12.50; 21,23-23,370), các môn đệ (14,1-20,34; 24,1-25,46),
người ta có thể chia sách làm hai phần:
Phần I (3,1-13,58): Đức Ki-tô
xuất hiện, nhưng dân Do thái không chịu tin Người, tuy Người nói năng và hành
động cách hữu hiệu phi thường.
Phần II: Đức Ki-tô tiến tới vinh quang
nhưng qua con đường đau khổ.
Như vậy, Mát-thêu đã thuật lại một tấn bi
kịch. Đức Ki-tô đến đòi dân Do thái phải tin Người cách vô điều kiện; Người
tuyên bố dân ngoại sẽ được nhận vào Nước Trời. Cuộc gặp gỡ giữa Người với dân Do
thái đáng lẽ phải làm cho niềm tin của họ được thêm củng cố, nhưng ngược lại, vì
cứng lòng, Do thái đã phân cách và chia ly với Người. Từ nay, những ai trung
thành với giáo lý của Đức Ki-tô phục sinh sẽ là dân Thiên Chúa đích thực. Dân
này tách biệt khỏi nhóm tá điền phản loạn, và sẽ sinh hoa kết quả như lòng Chúa
mong muốn.
3. Cộng đoàn của Mát-thêu
Việc lựa chọn và sắp
đặt các tiết mục trong sách Tin Mừng Mát-thêu cho thấy các mối ưu tư của môi
trường đã hình thành nên cuốn sách này.
3,1 Luật pháp
Trước
hết, Mát-thêu là tác giả nhấn mạnh nhiều hơn cả đến luật pháp, Kinh thánh và
phong tục Do thái, như bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Khác với Mác-cô (7,3-4),
Mát-thêu thấy không cần phải giải thích về các thói quen này và để cho Đức Ki-tô
nói cho người Do thái (10,6; 15,24). Tác giả nhấn mạnh đến việc luật pháp phải
được kiện toàn, lời Kinh thánh phải được thực hiện nơi Đức Ki-tô, nhóm
Pha-ri-sêu đã có nhiều lạm dụng trong các truyền thống. Phải triệt để giải thích
lại tất cả như nội dung trong bài giảng trên núi. Mát-thêu nhấn mạnh đến việc
Tin Mừng được chuyển sang cho dân ngoại. Như vậy có nghĩa là Tin Mừng đã bung ra
khắp nơi, mọi dân được kêu mời đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su (28,19)và ai
nấy sẽ được Con Người gọi ra trước tòa chung thẩm (25,31-46).
3,2 Các
môn đệ
Khác với Mác-cô, Mát-thêu không trình bày các môn đệ của Đức
Giê-su như là những con người ngây ngô, thiếu hiểu biết. Trái lại, đó là những
ngôn sứ, hiền nhân và luật sĩ của Luật mới (13,52). Trình bày như vậy là
Mát-thêu muốn làm cho các môn đệ thành những mẫu người cho các thế hệ sau này,
để báo trước thái độ mỗi môn đệ phải có, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn,
bị nao núng, chán nản (8,26; 14,31; 16,8; 17,20)
4. Khuôn mặt của Đức
Ki-tô
Mát-thêu nhấn mạnh đặc biệt đến vai trò là thày dạy vượt bậc
của Đức Ki-tô (5,2.19; 7, 29; 21,23; 22,16; 4,23; 9,35). Người dạy: công chính
là trung thành với Luật Chúa (5,19-20; 7, 29; 15,9;28,20). Ngay từ đầu, Mát-thêu
đã cho thấy Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, con vua Đa-vít và Con Thiên Chúa. Vì là
Con Thiên Chúa và là Đấng Ki-tô nên Người là Thầy, là Phát Ngôn Nhân về thánh ý
của Thiên Chúa.
5.Tác giả, tác phẩm, độc giả
Đối với các
Giáo Phụ, vấn đề này thật đơn giản; sách Tin Mừng thứ nhất đã được Tông đồ
Mát-thêu soạn ra cho các tín hữu gốc Do thái. Theo Đức Cha Papias,(giám mục
Hierapolis, thượng bán thế kỷ II) thì tông đồ Mát-thêu là tác giả. Nhiều Giáo
Phụ như O-ri-giên, Giê-ro-ni-mô, Ê-pi-pha-nô đã nghĩ như vậy. Nhiều người bây
giờ cũng nghĩ như thế, tuy khoa chú giải hiện nay cho vấn đề này là khá phức
tạp.
Có nhiều yếu tố khiến người ta có thể xác định được môi trường hình
thành cuốn Tin Mừng này. Bản văn hiện nay phản ánh nhiều truyền thống Do Thái;
ngữ vựng có nhiều mầu sắc Pa-lét-tin như “trói buộc, tháo cởi, ách, Nước Trời”
v.v… Nhiều kiểu nói, tác giả cho là đương nhiên, không cần giải thích, như khi
nói đến một số tập tục (8,3; 12,5; 23,5.15.23). Tuy trong sách có đầy những
truyền thống Do Thái, nhưng người ta vẫn không quả quyết được là tác giả đã viết
sách Tin Mừng này ở Pa-lét-tin. Có người cho rằng sách đã được viết ở Xi-ri, hay
ở An-ti-ô-khi-a (theo thánh I-nha-xi-ô, Giáo Phụ đầu thế kỷ II), hoặc ở
Phê-ni-xi, vì vùng này xưa kia có rất nhiều người Do Thái.
Về thời gian
sách được biên sọan, nhiều người cho là khoảng năm 80 hay có khi sớm hơn, nhưng
không ai dám quả quyết chắc chắn.
6. Tính hợp thời của Tin Mừng
Mát-thêu
Ngay từ thế kỷ II, sách Tin Mừng Màt-thêu đã được coi như
Tin Mừng của Hội thánh và sách cho thấy Hội thánh đã ăn rễ sâu trong truyền
thống nguyên thủy. Hội thánh không phải là Ít-ra-en mới, nhưng là Ít-ra-en đích
thực. Hội thánh không thay thế Ít-ra-en, nhưng chỉ cho Ít-ra-en con đường đi tới
Đức Giê-su. Mát-thêu không đồng hóa Hội thánh với Nước Trời. Làm như vậy, ngài
muốn nhắc cho Hội thánh biết rõ khuôn mặt đích thực của mình. Phải có thể chế để
cộng đoàn tồn tại, nhưng thể chế vẫn có tính tạm thời. Chỉ có Nước Thiên Chúa
mới làm cho Hội thánh có ý nghĩa.
Mát-thêu kêu mời mọi tín hữu ngày nay
nên có thái độ như các môn đệ của Đức Giê-su thời xưa, nghĩa là nhận ra quyền
năng của Người, đồng thời nhận lấy sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi người ở
khắp nơi. Như vậy, các tín hữu mới là những người đương thời với Đức Ki-tô, và
các mối liên lạc giữa Người với các tín hữu mới luôn hiện tại.
Thế giới biến chuyển không ngừng và Đức Ki-tô vẫn luôn hiện diện trong thế giới và kêu gọi chúng ta thực hành các lời giáo huấn của Người. Đó là trọng tâm Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, nghĩa là làm cho người ta thấy Đức Ki-tô phục sinh cũng chính là Đức Ki-tô người Na-gia-rét mà sách Tin Mừng này muốn làm cho mọi người được biết.
Đọc nhiều nhất Bản in 18.10.2008. 11:00