Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Mẹ Maria Trong Chương Trình Cứu Độ (Lễ Truyền Tin)

§ Lm Đinh Quang Thịnh

Lễ Truyền Tin (Ngày 25/3, Lễ Trọng)
Is 7,10-14; 8,10; Dt 10,4-10; Lc 1,26-38

BÀI ĐỌC I: Is 7,10-14; 8,10

7 10 Khi ấy, Đức Chúa sai ngôn sứ I-sai-a nói với vua A-khát rằng: 11 "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh."
12 Vua A-khát trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." 13 Ông I-sai-a bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? 14 Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.

8 10nghĩa là Thiên- Chúa- ở- cùng- chúng ta."

ĐÁP CA: Tv 39

Đ. Lạy Chúa, này con đến để thực thi ý Ngài. (x c 8a.9a)

7 Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, 8a con liền thưa: "Này con xin đến!

8b Trong sách có lời chép về con 9 rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con."

10 Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.

11 Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương.

BÀI ĐỌC II: Dt 10,4-10

4 Thưa anh em, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.5 Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.6 Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội.7 Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.

8 Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.9 Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.10 Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.

TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 1,14ab

Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người.

TIN MỪNG: Lc 1,26-38

26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"

35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Mẹ Maria Trong Chương Trình Cứu Độ

Qua ý nghĩa Phụng Vụ về ngày Lễ Truyền Tin và qua các Bài Kinh Thánh đọc trong Thánh Lễ này, Giáo Hội muốn cho chúng ta xác tín những điểm giáo lý sau đây:

1/ ĐỨC GIÊSU CÓ BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI.

Vì từ ngày Mẹ nói tiếng xin vâng để Con Thiên Chúa làm người trong cung lòng Mẹ: Ngày 25 tháng 3 cho tới ngày Mẹ sinh Con ngày 25 tháng 12. Đúng là Đức Giê-su được tượng thai trong lòng Mẹ chín tháng như hầu hết những người sinh ra cách bình thường, vì Con Thiên Chúa muốn trở nên giống hẳn người ta trong thân phận làm người, ngoại trừ tội lỗi (x Dt 7,26), ngõ hầu Ngài có thể thông cảm những yếu đuối của loài người mà ra tay cứu giúp họ đúng mức, bởi vì Ngài còn mạnh hơn loài người nhờ bản tính Thiên Chúa của Ngài.

2/ ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG CHÚA CHA BAN NHƯNG KHÔNG CHO LOÀI NGƯỜI QUA MẸ MARIA.

Để chứng minh chân lý này ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của Bài đọc I: Ông Teglat Phalasar III là vua của đế quốc Assur, triều đại từ năm 745 – 727 trước Công nguyên, ông này có tham vọng chiếm các miền Syria, Palestin, thế nên vào năm -740, ông bắt đầu chiếm miền bắc Syria, và vào năm – 738 sau khi hạ được Đamakus, ông chiếm trọn miền Syria. Đến năm – 734, ông tiến quân đến Gora, vua thành Gora là Hanun phải bỏ thành mà trốn sang Ai-cập. Teglat Phalasar thành công: tất cả những nước nhỏ trên giải đất Syria - Palestin đều nằm dưới quyền của ông. Ông đã tách chúng ra khỏi ảnh hưởng của Ai-cập, đã đặt ách đô hộ và bắt tất cả các nước chư hầu phải nộp thuế.

Vào năm -733, hai nước chư hầu là Syria và Israel liên kết với nhau để lật đổ ách thống trị của vua Assur, hai nước này rủ vua Akhaz nước Giuda thành một khối đồng minh. Nhưng vua Akhaz muốn chơi mảnh, ông từ chối sự liên minh này, để bợ đỡ Teglat Phanasar: xưng tụng vua này là cha của mình. Trước khi Syria và Israel tiến đánh Assur, thì hai nước này họp lại trừng phạt Giuda, muốn tiêu diệt dòng Đavid, để thay một vua khác gốc người Aram (x Is 7,6).

Trong sách Các Vua quyển thứ II (16,5t) còn thuật lại rõ hoàn cảnh này: Syria và Israel bao vây Giê-ru-sa-lem , vua Akhaz sai xứ đến với Teglat Phalasar mà tâu rằng: “Tôi là nô bộc, là con của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi bàn tay vua Aram và Israel, vì họ đang dấy lên đánh tôi” (2V 16,7). Teglat Phalasar đưa quân đến giải vây cho Giê-ru-sa-lem.

Trong bối cảnh thành Giê-ru-sa-lem bị bao vây, nhà Đavid bị khủng hoảng, dân mất niềm tin vào Akhaz, vì vua không tin vào Thiên Chúa che chở, lại tin tưởng vào thế lực của người đời, đã xin Teglat Phalasar ra tay che chở, trong khi ông này đang bắt dân Giu-đa nộp thuế. Như thế vua Akhaz vô tình tạo thêm hai kẻ thù là Syria và Israel, vì nếu ông liên kết với hai nước này thành một khối, thì ông chỉ có một kẻ thù là Teglat Phalasar. Trong tình thế bế tắc như vậy, vua Akhaz bèn đi coi bói và thiêu sống con để tế thần theo lời thầy tướng số dạy để cầu may. Tội ác ấy khiến ngôn sứ Isaia lên tiếng khiển trách: “Ông làm phiền lòng người ta chưa đủ lại còn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa ư?”

Thế mà ngôn sứ Isaia vẫn động viên ông hãy cầu nguyện với Thiên Chúa để Chúa ban cho một dấu đến cứu dân tộc ông. Ông thưa lại: “Tôi không xin Thiên Chúa, vì tôi không dám thử thách Ngài” (Is 7,12: Bài đọc). Thế mà Chúa vẫn ban cho ông một dấu: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh con trai và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14: Bài đọc). Thiên Chúa ở cùng ai thì phần chiến thắng luôn luôn thuộc về họ, nên không còn ai khiếp sợ !

Vậy Đấng Emmanuel Thiên Chúa tặng ban cho loài người để cứu những ai tin vào Ngài là Thiên Chúa cứu độ duy nhất, thì được Ngài giải thoát khỏi ác thần, thoát tay thần chết. Đây là ơn huệ Thiên Chúa ban nhưng không, tức là ơn huệ không do công đức của ai cũng như không ai xin Chúa. Cụ thể như vua Akhaz quá tội lỗi, ông không dám xin Chúa một dấu nào để cứu dân tộc ông đang lâm cảnh bĩ cực, mà Chúa vẫn hứa ban Đấng Mêsia để cứu dòng giống vua Đavid mà Chúa đã hứa: vương quyền của vua này không bao giờ bị mất, hầu cứu dân Do-thái thoát ba thù: đế quốc Assur, nước Syria và nước Israel, nay không vì lời cầu của Đức Ma-ri-a mà Chúa lại ban Đấng Emmanuel là Con Một Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, giàu lòng nhân ái, cũng là Con của Đức Ma-ri-a đến cứu ta thoát ba thù: xác thịt, thế gian, ma quỷ, hầu ta được sống dồi dào hạnh phúc như Thiên Chúa trong thế giới Phục Sinh (x 1Ga 3,2).

Tại sao Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông Giuse và bà Maria đặt tên cho con trẻ là Giêsu (x Mt 1,21; Lc 1,31), mà ngôn sứ Isaia lại nói tên của Ngài là Emmanuel ? Emmanuel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng loài người, đó mới là lý do loài người được Thiên Chúa cứu độ. Danh Emmanuel nhấn mạnh về mầu nhiệm nhập thể mới thực là mầu nhiệm cứu độ. Thực vậy, nếu Con Thiên Chúa không sống trong ta và ta không sống trong Con Thiên Chúa, thì sự chết của Đức Giê-su chỉ mang tính pháp lý, con người vẫn chưa được cứu độ. Thí dụ: Người cha yêu con hết lòng, con muốn gì cha cũng cho với mục đích là cho con ăn học nên người thành tài. Thế nhưng người con đã lạm dụng ơn cha ban mà lao đầu vào con đường trụy lạc, trộm cắp, giết người, hậu quả là đứa con bị pháp luật lên án tử ! Nếu người cha không thương con, ông có thể nói: Mặc nó, tôi đã hết lòng thương lo cho nó, nó không làm theo ý tôi, bây giờ nó phải chết, thì lỗi tại nó chứ không tại tôi. Nhưng nếu người cha tự cho mình còn có trách nhiệm cứu con, ông có thể nói với pháp luật: Con dại cái mang, tôi xin chết thay cho con tôi, nhờ đó con ông được tự do, nhưng nếu nó không sống như lời người cha đã dạy, nó tiếp tục trở lại con đường cũ. Nó phải chết ! Và cái chết của cha nó đã trở thành vô ích !

Vậy người cha chết thay, đó là tình yêu mãnh liệt thúc bách con phải sống như cha nó đã sống, lúc đó cái chết của người cha mới thực sự là cứu đứa con hư.

3/ MẸ MARIA LÀ EVA MỚI.

Thuở xưa sự chết độp nhập vào thế gian, khởi đi từ bà Eva không vâng lời Thiên Chúa, làm theo ý ma quỷ xúi giục: hái trái Chúa cấm ăn tưởng là cứ có đủ mọi của cải vật chất,đời này không thiếu thốn sự gì thì được hạnh phúc bằng Thiên Chúa (x St 3).

Trái lại, Đức Ma-ri-a là Eva mới, Mẹ hoàn toàn vâng theo ý Chúa:

Chính vì vậy mà Mẹ xứng đáng với tước hiệu “Mẹ Hằng Cứu Giúp”, nghĩa là Mẹ đã nối dài và mở rộng công cuộc cứu độ của Con Mẹ đã thực hiện, nên Mẹ còn được Giáo Hội gọi là Đấng trung gian các ơn. Dĩ nhiên chỉ duy Đức Giê-su là Đấng Trung Gian giữa Chúa Cha và loài người, nhưng sự trung gian của Đức Ma-ri-a được ví như “chất keo tiết ra từ Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Giê-su để dính các phần tử trong Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm Chúa Giê-su Phục Sinh” (x Hiến Chế Hội Thánh số 60-62). Để Mẹ Maria cùng đồng tế với Con của Mẹ nơi đồi Sọ, mà tác giả thư Do-thái đã nói về chức Tư Tế của Đức Giê-su mà Đức Ma-ri-a cùng được đồng tế: “Hy sinh và lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn tạo nên thân xác cho con, các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người chẳng đoái. Bây giờ con nói: này con đến – trong Cuốn Sách đã viết về con – để thi thành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa. Như vậy Người đã loại bỏ điều trước mà thiết lập điều sau. Chính trong ý muốn ấy mà ta đã được tác thánh, nhờ việc Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình Ngài duy chỉ một lần” (Dt 10,4-10: Bài đọc II và Tv 40/39,9a: Đáp ca).

Vậy vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc cứu chuộc loài người của Con Thiên Chúa thực hiện vô cùng quan trọng. Thánh Công Đồng Vat.II nói: “Chính Ngài nhờ vâng phục đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại; nút dây đã thắt lại do sự bất tuân của Eva, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Ma-ri-a; điều mà trinh nữ Eva đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin, và so sánh với Eva, Đức Ma-ri-a xứng đáng là “Mẹ của kẻ sống”. bởi Eva đã có sự chết thì nhờ Maria lại được sống” (Hiến Chế Hội Thánh số 56).

THUỘC LÒNG

Nút dây đã thắt lại do sự bất tuân của Eva, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Ma-ri-a(Hiến Chế Hội Thánh số 56).

Mẹ Maria chỉ nói với loài người một lời: “Đức Giê-su bảo gì, các con hãy làm theo” (Ga 2,5)

Lm Đinh Quang Thịnh

Tags ·

Đọc nhiều nhất Bản in 27.03.2010. 10:46