Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Harriman: Người quyết định số phận của Ngô Đình Diệm

§ Lữ Giang

VietCatholic News (Thứ Sáu 29/10/2004 15:18)

Harriman: Người quyết định số phận của Ngô Đình Diệm

Những tài liệu mật của văn khố Hoa Kỳ được giải mã cho đến nay cũng đã đủ để cho chúng ta thấy rõ rằng sở dĩ chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ là vì chống lại chính sách “trung lập hóa” Lào của Hoa Kỳ và không cho Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Người quyết định và thực hiện cuộc lật đổ này không phải là Tổng Thống Kennedy hay Ngoại Trưởng Dean Rusk mà là Averell W. Harriman, Phụ Tá Ngoại Giao về Đông Nam Á Sự Vụ! Phật giáo đã được xử dụng như là một công cụ, rồi sau đó bị loại bỏ với những hậu quả thê thảm còn kéo dài đến ngày nay!

Nhân dịp Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày ông Diệm về chấp chánh và tưởng niệm những người đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, chúng tôi xin trình bày những nét chính về sự kiện nói trên. Toàn bộ tài liệu liên hệ sẽ được trình bày tỉ mỉ trong một cuốn sách sắp xuất bản.

I.- LỜI XÁC NHẬN CỦA MỘT NHÂN VẬT CÓ THẨM QUYỂN

Trong cuốn “From Trust to Tragedy” (Từ Tín Nhiệm đến Thảm Kịch) ông Frederick Nolting, cựu Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH, đã viết:

Averell Harriman, đặc sứ của Tổng Thống Kennedy trong cuộc thương thuyết về Lào từ 1961 đến 1962, trở thành Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Đông Nam Á Sự Vụ năm 1962 và sau đó là Thứ Tưởng Ngoại Giao về Vấn Đề Chính Trị. Ông ta trở thành một viên chức hàng đầu của Bộ Ngoại Giao giải quyết vần đề Việt Nam trong đầu thập niên 1960s. Mặc dầu công việc lâu dài và đặc biệt của ông đối với quốc gia chúng ta là trên những lãnh vực khác, Harriman đã phán đoán và lãnh đạo chính sách về Đông Nam Á, theo ý kiến của tôi, là tai hại. Âm mưu “trung lập hóa” Lào của ông ta là một sự thất bại thê thảm, và sự thù nghịch ngày càng gia tăng giữa ông với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và gia đình của ông ta trở thành một yếu tố chủ yếu trong việc lật đổ ông Diệm. Tuy nhiên, thanh thế và ảnh hưởng của Harriman ở Washington lớn đến nổi trở thành quyết định trong các hành động cốt yếu mà chính phủ chúng ta đã thực hiện trong năm 1963.”

Quả thật đúng như vậy. Tổng Thống John F. Kennedy mới lên nhận chức ngày 21.1.1961, mặc dầu chưa nắm vững tình hình và chưa có chút kinh nghiệm nào trong việc đối phó với Cộng Sản Việt Nam, ông đã nghĩ ngay đến việc giải quyết vấn đề Đông Dương theo phương thức của ông. Kennedy chủ trương phải hình thành một nước Lào độc lập và trung lập, và coi đó là “vấn đề số phận của chính họ.” Việc thưc hiện trung lập hóa Lào được trao cho Averell Harriman, một người bạn thân của ông. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhất là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đã tìm cách chống lại chủ trương này khiến Harriman gặp nhiều khó khăn. Harriman đã phải dùng quyền lực của một cường quốc để áp đặt giải pháp đó. Kết quả, giải pháp trung lập hóa Lào đã thất bại thê thảm. Sự bất đồng giữa Harriman và chính phủ Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên nghiêm trọng. Harriman đòi hỏi phải loại bỏ Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyến. Khi biết rằng không thể tách Ngô Đình Nhu ra khỏi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Harriman quyết định loại cả hai. Sau đây là diễn biến của biến cố này.

II.- TRUNG LẬP HÓA LÀO BẰNG MỌI GIÁ

Averell W. Harriman sinh năm 1891, tốt nghiệp Yale University, từng là Đại Sứ Hoa Kỳ tại Liên Sô (1943) và Anh (1946), Thống Đốc New York (1955-1959), Đại Sứ Toàn Quyền của Hoa Kỳ (1960-1961). Ông được coi là “kiến trúc sư của chính sách Chiến Tranh Lạnh” (architect of Cold War policy) của Hoa Kỳ. Có lẽ thấy ông có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về đối đầu với Cộng Sản nên Tổng Thống Kennedy đã chọn ông để giải quyết vấn đề Lào. Tuy nhiên, ông đã vi phạm nhiều sai lầm với những hậu quả rất tai hại.

Ngày 29.11.1961, Harriman được chính thức bổ nhiệm làm Phụ Tá Ngoại Giao về Đông Nam Á Sự Vụ và ngày 4.12.1961 ông nhận chức. Tháng 8 năm 1963 ông được thăng lên Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về Chính Trị Sự Vụ (Political Affairs) với quyền hạn rộng lớn hơn. Được Tổng Thống Kennedy tín nhiệm, ông đã thao túng chính sách của Hoa Kỳ về Đông Dương thời đó.

1.- Hai cách nhìn khác nhau

Tổng Thống Kennedy và Harriman quan niệm rằng “trung lập hóa” Lào, tức thành lập tại đó một chính phủ trung lập do Souvanna Phouma lãnh đạo, cai trị toàn lãnh thổ Lào, kể cả các vùng do Phathet Lào kiểm soát. Tất cả các lực lượng ngoại nhập đều phải rút ra khỏi Lào và không được xử dụng lãnh thổ Lào vào các mục tiêu quân sự.

Trong khi đó, Cộng Sản lại quan niệm khác hẳn. Cộng Sản coi “trung lập hóa” Lào là một hình thức trói tay Hoa Kỳ và VNCH lại để họ tự do dùng con đường mòn Hồ Chí Minh ở phía đông Lào đưa quân đội, vũ khí và quân dụng vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam.

Như vậy, cả Hoa Kỳ lẫn Cộng Sản đã quan niệm “trung lập hóa” Lào như là một giải pháp tối ưu đối với họ. Trong khi đó, chính phủ Ngô Đình Diệm tin rằng sau khi trung lập hóa Lào, tình hình sẽ xấu hơn, quân Bắc Việt sẽ dùng lãnh thổ Lào để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam một cách dễ dàng hơn mà Souvanna Phouma không thể ngăn cản được. Vì thế, nhiều cuộc cãi vã đã xẩy ra giữa Harriman và Ngô Đình Nhu. Hai bên trở thành đối thủ không đội trời chung!

Ngoài sự bất bình với chủ trương trung lập hóa Lào của Tổng Thống Kennedy, chính phủ Ngô Đình Diệm còn bất bình với ông Elbridge Durbrow, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, một người luôn muốn hành xử quyền Đại Sứ như một Toàn Quyền Đông Dương của Pháp ngày xưa, nên việc thuyết phục chính phủ VNCH tham dự hội nghị Gevève về vấn đề Lào khá rắc rối. Trước tình trạng đó, Tổng Thống Kennedy muốn chỉ định Tướng Edward G. Lamsdale làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay Elbridge Durbrow, nhưng Ngoại Trưởng Dean Rusk bác bỏ. Vì thế, Tổng Thống Kennedy đã cử ông Frederic. E. Nolting. Ông đã đến Sài Gòn nhận chức vào ngày 8.5.1991.

Đại Sứ Frederick E. Nolting kể lại rằng thỉnh thoảng trong cuộc thương thuyết, Washington có hỏi quan điểm ông về các hiệp ước Lào đang được triển khai. Ông đã trình cho Washington rằng quan điểm của ông cũng như quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã trình bày vấn đề này với chính cá nhân Harriman trong các cuộc họp của các đại sứ vùng tại tại Bangkok (Thái Lan) và Baguio (Phi Luật Tân). Harriman nói với ông rằng ông ta đã có “cảm nghiệm tường tận” (fingertips feeling) rằng Liên Sô sẽ bắt buộc (Hà Nội) thi hành các thỏa ước. Sự hiểu biết tường tận của ông là do đã từng phụ trách các công việc về Liên Sô. Mặc dầu vậy, ông Nolting đã trả lời Harriman rằng sự biết rõ tường tận của ông ta hoàn toàn trái ngược. Trong một cuộc thảo luận khác, Harriman đã nói với ông rằng Tổng Thống Kennedy đã “chỉ đạo” cho ông ta phải đạt tới “một giải pháp ngoại giao” về Lào, nên ông phải làm như vậy. Khi ông Nolting hỏi Harriman rằng Tổng Thống có biết về các điều khoản của hiệp ước và những sự thiếu bảo đảm an toàn trong hiệp đó hay không, Harriman không trả lời trực tiếp, nhưng nói: “Ông đang làm việc cho Kennedy chứ không phải làm việc cho Thượng Đế”. Ông Nolting lại hỏi Harriman rằng ông ta có đọc những tường trình của ông khi được lệnh làm việc với chính phủ Nam Việt Nam và xét đến quan điểm của chính phủ ấy hay không, Harriman nói rằng ông ta không đọc, nhưng ông ta biết ông ta đang làm gì.

2.- Gặp khó khăn với các phe phái Lào.

Sau nhiều cuộc vận động ngoại giao, ngày 16.5.1961 Hội Nghị Quốc Tế Giải Quyết Vấn Đề Lào (The International Conference on the Settlement of the Laotian Question) đã được khai mạc tại Genève với sự tham dự của 14 nước: Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh, Pháp, Canada, Ấn Độ, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam), Thái Lan, Cam-bốt, Miến Điện, Ba Lan và Á Nhĩ Lan. Nga Sô và Anh đồng chủ tọa.

Tuy nhiên, khi hội nghị bắt đầu khai mạc, Thủ Tướng Souvana Phouma tuyên bố chính phủ ông là đại diện chính thức của Lào, do đó nếu có đại diện phe hữu của Hoàng Thân Phoumi Nosavan và phe tả Pathet Lào của Hoàng Thân Souphanouvong tại hội nghị, chính phủ của ông sẽ không tham dự.

Do sự thuyết phục và áp lực của Hoa Kỳ, ba Hoàng Thân Souvanna Phouma (trung lập), Soupha nouvon (Pathet Lào) và Tiao Boun Oum (phe hữu) đã họp tại Zurich, Thụy Sỹ, từ 11 đền 23.6.1961. Kết quả: Cả ba đồng ý sẽ thành lập một chính phủ liên hiệp và Thủ Tướng Souvana Phouma chấp nhận sự hiện diện của hai phe kia tại hội nghị Genève: Ngoại Trưởng Quinim đại diện phe trung lập của Souvanna Phouma, Phoui Sananikone đại diện phe hữu của Phoumi Nosavan, còn Phoumi Vongvichit đại diện phe tả Pathet Lào.

3.- Đối đầu với VNCH

Khi hội nghị Genève bắt đầu, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng không chịu tham dự, nhưng do áp lực của Hoa Kỳ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phải cử Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu dẫn một phái đoàn đến dự. Phái đoàn Bắc Việt do Ngoại Trưởng Ưng Văn Khiêm cầm đầu.

Tháng 7 năm 1961, Hoàng tử nước Moroco là Moulay Hassan lên ngôi kế vị cha, được gọi là Hoàng Đế Hassan II. Nhân dịp này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cử ông Ngô Đình Nhu, Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, đại diện chính phủ VNCH đi dự lễ đăng quang này với mục đích tạo cơ hội cho ông Nhu ghé Genève thảo luận với ông Harriman về vấn đề trung lập Lào. Ông Nhu đã ghé qua Pháp và cũng Giáo sư Bửu Hội đến Rabat dự lễ. Sau đó ông trở lại Pháp rồi cùng ông Cao Xuân Vĩ và người con gái là cô Ngô Đình Lệ Thủy bí mật đền Genève gặp Harriman khi đó đang tham dự hội nghị trung lập Lào tại đây.

Ông Cao Xuân Vĩ kể lại rằng, theo chương trình, ông Harriman chỉ chịu tiếp ông Nhu trong vòng nửa tiếng. Ông và cô Ngô Đình Lệ Thủy không được tham dự. Nhưng cuộc nói chuyện đã kéo dài đến 3 tiếng đồng hồ. Khi Harriman tiển ông Nhu ra cửa phòng, ông thấy mặt hai người đều hầm hầm. Khi gặp ông Vĩ, ông Nhu lầu bầu: “Thằng cha này chẳng hiểu gì hết!”. Ông Vĩ hiểu rằng Harriman không chịu bỏ chủ trương trung lập hóa Lào. Tối hôm đó ông Nhu bỏ không ăn tối.

Vì có sự bất đồng giữa Harriman và Ngô Đình Nhu, chính phủ VNCH đã rút phái đoàn VNCH khỏi hội nghị Genève. Trung tuần tháng 9 năm 1961, Harriman phải đích thân đến Sài Gòn để thảo luận lại với chính phủ Ngô Đình Diệm. Một cuộc họp đã diễn ra ngày 20.9.1961 tại một căn phòng nhỏ trong Dinh Gia Long.

Đại Sứ Nolting kể lại rằng ông Diệm đã trình bày qua một thông dịch viên. Ông giải thích cho Harriman một cách thẳng thắn tại sao ông không tin tưởng Cộng Sản sẽ thi hành hiệp ước sau khi ký kết. Ông lui lại chuyện Cộng Sản đã phản hội hiệp ước từ thập niên 1930s. Ông nói về kinh nghiệm của chính mình với Hồ Chí Minh và sự phản bội của Việt Minh đối với người anh của ông đã bị họ giết. Hồ sơ lịch sử được đưa ra khá dài và chính xác. Nó cho thấy rằng việc ký hiệp ước về Lào không có gì bảo đảm sẽ được thi hành.

Với những bằng chứng lịch sử và lý luận đó, ông Diệm đã cứng rắn chống lại chủ trương trung lập hóa Lào. Ông chẳng những không ủng hộ Souvanna Phouma mà còn muốn Hoa Kỳ và Tổ Chức Hiệp Ước Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization) chiếm thủ đô Vạn Tượng và các thành phố dọc theo sông Mekong ở nam Lào để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng Sản từ miền Bắc. Đó không phải là một lập trường không hợp lý, nhưng khi đưa ra đề nghị này, chủ đích của ông Diệm là muốn chọc tức Harriman. Tuy nhiên, Harriman đã không thèm nghe và nhắm mắt lại. Ông xem ra đang ngủ. Ông Diệm chú ý đến thái độ này và hơi bực mình, nhưng vẫn tiếp tục độc thoại.

Đại Sứ Nolting ngồi gần Harriman trên một cái sofa, nhận thấy rằng ông ta đang trải qua một giấc mơ dài và mệt mỏi. Ông cố gắng làm cho ông ta chú ý. Cuối cùng, Harriman gắt gỏng: “Thưa Tổng Thống, tôi có “cảm nghiệm tường tận” (fingertips feeling) rằng Liên Sô sẽ thi hành các thỏa ước này và làm cho những người khác tuân theo thỏa ước đó. Tôi không thể đưa ra cho ngài bất cứ bảo đảo nào, nhưng có một điều rõ ràng là: nếu ngài không ký hiệp ước này, ngài sẽ mất hết viện trợ. Ngài phải chọn.” Sau đó, Harriman trở lại Genève.

Harriman cho rằng việc thuyết phục Sài Gòn khó hơn việc thuyết phục Hà Nội nhiều. Trong một lá thư viết cho John K. Galbraith, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Ấn Đô, Harriman nói rằng ông Diệm đã mất sự tin tưởng của quần chúng. Hoa Kỳ đã ngồi vào một chiếc thuyền chung khi chính quyền Eisenhower yểm trợ cho Phoumi ở Lào, hầu như không đứng về phía dân chủ. Ông nói rằng đã đến lúc “phải ra khỏi chính sách của Dulles là ủng hộ “những người mạnh” (strong man) bất kể... Sự ổn định hiện tại của những người mạnh của chúng ta không phải là kẻ chiến thắng về lâu về dài, ít ra ở Đông Nam Á.”

Đại Sứ Nolting cho biết, sau cuộc họp nói trên, ông được lệnh của Washington tìm cách thuyết phục ông Diệm, người vừa bị Harriman xúc phạm, ký vào hiệp ước trung lập Lào. Ông đã nói với ông Diệm rằng Tổng Thống Kennedy chỉ muốn thương thuyết để giải quyết vấn đề Lào mà thôi. Mặc dầu theo ý kiến của ông cũng như ông Diệm, đó là một hiệp ước không công bằng, không được bảo vệ, và có thể không thể thi hành được, nhưng có thể đó là một hiệp ước tốt nhất. Để duy trì đầy đủ sự yểm trợ của chính quyền Kennedy đối với nỗ lực tại Nam Việt Nam, tốt hơn cả là nên ký vào thỏa ước. Cuối cùng, ông Diệm đã ký vào thỏa ước.

Sau đó, Đại Sứ Nolting thấy rằng đó là một lỗi lầm đắt giá, nên ông đã đến gặp ông Diệm để nói lời hối tiếc vì đã thúc giục ông ta làm điều đó. Sau khi Hoa Kỳ rút viện trợ và cố vấn ra khỏi các nhóm đồng minh Lào, các bộ tộc người Mèo, Cộng Sản, nhất là Bắc Việt, đã không cần biết gì đến những điều khoản họ vừa ký kết.

4.- Hình thành chính phủ liên hiệp Lào

Với ba phe lâm chiến ở Lào, Harriman cũng gặp nhiều khó khăn trong việc thuyết phục họ chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp. Harriman mở các cuộc họp với ba Hoàng Thân Souvanna Phouma, Boun Oum và Souphanouvong tại Zurich và Vientiane để tìm một sự thỏa hiệp. Nhưng Phoumi Nosavan cho rằng việc chọn Souvanna Phouma lãnh đạo chính phủ mới là một sự sai lầm. Cả Hoa Kỳ lẫn Thái Lan liền dọa dọa cắt đứt mọi viện trợ cho Phoumi nếu ông ta không chấp nhận điều kiện đó.

Tháng 3 năm 1962, Harriman phái William H. Sullivan và Michael V. Forrestal qua Lào để vận động các phe phái Lào, nhất là phe Tướng Phoumi, chấp nhận các đề nghị của Hoa Kỳ. Sau đó, chính Harriman đích thân đến Bangkok nhờ Thống Chế Sarit của Thái Lan triệu tập một cuộc họp với Hoàng Thân Phoumi tại Nong Khai, bên bờ sông Mekong, để thuyết phục tướng này. Tiếp theo, Harriman mở một cuộc họp gay go với Phoumi và nội các của ông ta tại Vạn Tượng. Phoumi lặp lại quan điểm của ông là chống lại việc chọn Phouma lập chính phủ mới. Cuộc họp chấm dứt mà không có kết quả nào.

Để biểu lộ sự bất khoan nhựợng của mình, Phoumi cho mở cuộc tấn công Nam Tha, một thành phố ở tây bắc Lào, mặc dầu vị trí đó không có giá trị chiến lược quan trọng nào. Nhưng khi bị quân Pathet Lào và Bắc Việt phản công, quân của Phoumi chạy về phía sông Mekong, để lại nhiều vũ khí. Phoumi tin rằng Hoa Kỳ và Thái Lan sẽ can thiệp, nhưng việc đó đã không xẩy ra. Cuối cùng, Phoumi chấp nhận một chính phủ liên hiệp do Phouma cầm đầu.

5.- Bị phái đoàn Bắc Việc coi thường

Tháng 6 năm 1962, vào một buổi sáng Chúa Nhật, Harriman và một nhà ngoại giao trẻ là William H. Sulliam đã lén đến họp với phái đoàn Bắc Việt ở Genève để thăm dò quan điểm của Hà Nội. Harriman lái xe đến đậu bên lề đường gần ga xe lửa Genève. Để tránh các viên chức của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa ở bên kia đường trông thấy, Harriman và Sulliam đi ngả cửa nhà bếp vào phía sau một khách sạn nhỏ do người Miến Điện xử dụng, rồi lên cầu thang để đến gặp Ngoại Trưởng Ưng Văn Khiêm và Đại Tá Huỳnh Văn Lâu của Bắc Việt. Họ đang chờ hai ông.

Khi uống trà, Harriman nói rằng trong thời gian chiến tranh, cá nhân ông có nghe nói Đồng Minh chống lại việc Pháp trở lại Đông Dương, nhưng sau đó Hoa Kỳ không làm gì cả để ngăn chận việc này. Ưng Văn Khiêm nói rằng ông cũng có nghe như vậy và rất ngạc nhiên khi thấy Hoa Kỳ chấp thuận việc Pháp trở lại các thuộc địa cũ. Sau đó họ bàn về chuyện tương lai. Mặc dầu đây là một cuộc nói chuyện riêng tư, nhưng Ưng Văn Khiêm không thừa nhận có quân Bắc Việt tại Lào hay Nam Việt Nam, mà nói rằng chỉ có một ít “huấn luyện viên” đến giúp Lào theo lời yêu cầu của Thủ Tướng Souvanna Phouma. Khi Harriman hỏi rằng những người này có rút lui theo sự quy định của hiệp ước trung lập Lào hay không, Ưng Văn Khiêm nói rằng Hà Nội sẽ không làm gì “trái với hiệp ước”. Ưng Văn Khiêm hoàn toàn chối bỏ việc quân Bắc Việt xâm nhập vào miền Nam Việt Nam và cho rằng cuộc chiến hiện tại ở miền Nam là do dân miền Nam nổi dậy chống lại chế độ bù nhìn Ngô Đình Diệm. Harriman đã nhấn mạnh rằng sẽ không có hòa bình nếu Bắc Việt không chấm dứt sự xâm lăng.

Sau này Sulliam kể lại rằng Ưng Văn Khiêm mặc một bộ đồ kềnh càng kiểu Liên Sô, với thái độ hung dữ và khinh thường (brutal and contemptuous), còn Harriman có thái độ kiên nhẫn khác thường đối với tên côn đồ xấc láo nhỏ bé đó (marvelously patient with this insulting little thug). Harriman không hiểu rằng đại diện Bắc Việt không có thẩm quyền gì ngoài việc lặp lại “kinh nhật tụng” chống chế độ Sài Gòn mà họ đã học thuộc lòng. Do đó, cuộc thăm viếng chẳng đem lại kết quả gì. Ấy thế mà Harriman bảo rằng nói chuyện với Hà Nội dễ hơn nói chuyện với Sài Gòn!

III.- ĐÒI ĐƯA QUÂN MỸ VÀO MIỀN NAM

Trong khi Harriman lo thương thuyết để “trung lập hóa” Lào, ngày 11.5.1961, chính phủ Kennedy đã cử một phái đoàn do Phó Tổng Thống Lyndon B. Johson lãnh đạo, đến Nam Việt Nam quan sát tình hình và yêu cầu chính phủ Ngô Đình Diệm để cho quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam.

Các nhà phân tích cho rằng chính phủ Kennedy tin tưởng sau khi “khóa tay Cộng Sản” bằng hiệp định “trung lập hóa” Lào, Hoa Kỳ sẽ đưa quân vào miền Nam để thanh toán quân nổi dậy tại miền Nam Việt Nam một cách nhanh chóng. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thấy trước rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ tại miền Nam chẳng những sẽ không đánh bại được Cộng Sản mà còn làm cho miền Nam mất chủ quyền và mất chính nghĩa, nên ông đã khôn khéo từ chối.

Phái đoàn của Phó Tổng Thống Johnson vừa rời Việt Nam ngày 13.5.1961, ngày 15.5.1961 Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã viết cho Tổng Thống Kennedy một văn thư, trong đó có đoạn như sau:

Giờ đây, chúng tôi biết rằng, là một tiểu quốc, chúng tôi không thể thỏa mãn được đơn phương tất cả mọi nhu cầu phòng thủ từ nguồn tài chánh riêng của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất từ Quý đại quốc, một yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng.”

Như vậy, cả hai kế hoạch của chính quyền Kennedy đưa ra để giải quyết chiến trường miền Nam đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối vì cho rằng không có hiệu quả.

IV.- SỰ THẤT BẠI CỦA HIỆP ƯỚC LÀO

Ngày 22.6.1962, chính phủ liên hiệp Lào được thành lập gồm 3 chính đảng: trung lập 7 ghế, phe Phoumi 4 ghế, phe Pathet Lào 4 ghế và 4 ghế dành cho những người không thuộc đảng phái nào. Đây là chính phủ liên hiệp thứ hai của Lào.

Ngày 23.7.1962, Hiệp Ước Hòa Bình tại Lào đã được ký kết. Có 14 quốc gia đứng ra bảo đảm sự trung lập của Lào. Khi Tuyên Ngôn Trung Lập Lào được công bố, khoảng 666 cố vấn quân sự của Hoa Kỳ còn lại rút ra khỏi Lào. Souvanna Phouma được mời đến viếng thăm Washington.

Nhưng giải pháp của Averell W. Harriman đã thất bại rất thê thảm. Đến ngày 20.8.1962 là hết thời hạn 30 ngày để chỉ định các địa điểm triệt thoát quân đội ngoại quốc, Pathet Lào không chịu cho biết những nơi quân đội Bắc Việt đang đóng và nói rằng không hề có quân đội Bắc Việt trên đất Lào. Trước tình trạng này, Tướng Phoumi Nosavan không chịu bàn giao công việc tại các Bộ đã dành cho Phathet Lào.

Mặc dầu có sự tráo trở của phe Cộng Sản, ngày 29.9.1962, chính phủ Hoa Kỳ cho biết đã bắt đầu rút 800 cố vấn ra khỏi Lào và tố cáo hiện có khoảng 10.000 bộ đội Bắc Việt trên đất Lào. Đến ngày 4.10.1962, Hoa Kỳ cho biết chỉ còn lại 115 cố vấn đang chuẩn bị về nước, trong khi đó Bắc Việt chỉ mới rút có 5 người!

Vì chính phủ trung lập Lào tuyên bố công nhận chính phủ Hà Nội, ngày 8.11.1962, chính phủ VNCH quyết định đóng cửa Tòa Đại Sứ Sài Gòn tại Vạn Tượng và nhờ Tòa Đại Sứ Nhật Bản trông coi quyền lợi của Việt kiều trên đất Lào.

Ngày 28.11.1962, cả ba phe lâm chiến tại Lào thỏa hiệp về sự thống nhất quân đội. Tuy nhiên, đến ngày 18.4.1963, Thủ Tướng Phouma chính thức lên tiếng tố cáo Pathet Lào và Bắc Việt phá hoại chế độ trung lập Lào và yêu cầu chấm dứt giao tranh với quân đội Khong Le tại Cánh Đồng Chum.

Ngày 1.4.1963, Bộ Trưởng Ngoại Giao Quinim của chính phủ liên hiệp bị ám sát tại Vạn Tượng. Pathet Lào cho rằng thủ đô thiếu an ninh, đã rút các thành viên trong chính phủ của họ ra khỏi thủ đô. Sau đó, một loạt những biến động khác đã xảy ra. Một trong các phụ tá thân cận của Khong Le bị ám sát. Đại Tá Deuane ly khai khỏi nhóm Khong Le. Một máy bay tiếp tế của Hoa Kỳ bị nhóm ly khai của Đại Tá Deuane bắn rơi. Khong Le rút quân khỏi Khang Khay và thiết lập bộ chỉ huy mới ở Muang Souy trên bờ tây Cánh Đồng Chum.

Ngày 19.4.1963, quân của Phoumi tới bao vây Bộ Thông Tin và định bắt Bộ Trưởng Vongvichit, của Phathet Lào. Vongvichit bỏ trốn. Thủ Tướng Phouma kêu gọi Anh và Nga can thiệp.

Khi các đơn vị đặc biệt của Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Nam Lào theo khuyến cáo của Mỹ, Hà Nội bắt đầu đẩy mạnh việc khai thông con đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Theo báo cáo của CIA, sau khi Lào tuyên bố trung lập, khoảng 7.000 bộ đội Bắc Việt chẳng những không chịu rút khỏi Lào mà còn bành trướng thêm. Chế độ trung lập tan rả. Hoa Kỳ quyết định can thiệp bằng quân sự vào Lào trở lại. Ngày 26.4.1963, Hoa Kỳ tuyên bố chuẩn bị đổ quân vào Thái Lan.

Trong năm 1963, chính quyền Kennedy lại cho phép CIA huấn luyện và trang bị cho khoảng 20.000 quân HMong để chống lại quân Bắc Việt lẫn Pathet Lào. Các nhà phê bình thường coi sự nhượng bộ của Harriman như là một lỗi lầm định mệnh, mở đường cho Bắc Việt xâm nhập miền Nam và gọi con đường đó là “Xa lộ Averell Harriman” (The Averell Harriman Highway), tức Đường Mòn Hồ Chí Minh.

V.- QUYẾT LẬT ĐỔ NGÔ ĐÌNH DIỆM

Sau sự thất bại của hiệp ước “trung lập hóa” Lào, sự xích mích giữa chính phủ Ngô Đình Diệm và Harriman ngày càng gia tăng. Harriman và tay chân bộ hạ của ông tìm cách lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm.

Tháng 6 năm 1962, Roger Hilsman, Giám Đốc Phòng Tình Báo và Nghiên Cứu của Bộ Ngoại Giao đến Việt Nam quan sát tình hình và trở về gởi cho Harriman một báo cáo mang số RFE-27 ngày 18.6.1962 dưới đề mục “Phúc Trình Tiến Triển về Nam Việt Nam”. Bản báo cáo nhận định rằng “Kế Hoạch Bình Định Delta” (Delta Pacification Plan) do sự hướng dẫn của Phái Bộ Cố Vấn Anh (British Advisory Mission) trong chương trình ấp chiến lược đang tiến triển tốt đẹp. Nhưng Hilsman than phiền rằng mặc dầu đã có sự phát triển các đơn vị Biệt Động Quân tại vùng Cao Nguyên, không có bằng chứng nào cho thấy các đơn vị này đang được xử dụng ở mức độ đáng kể để hành quân trong vùng biên giới Việt - Lào. Hình như Hilsman không biết rằng các cuộc hành quân tại vùng này đã được giao cho Biệt Kích Dù thực hiện dưới danh nghĩa “Hành Quân Lôi Vũ”? Tuy nhiên, ở phần kết luận, Hilsman đã nói: “không có bằng chứng nào yểm trợ cho một vài tố cáo về sự tan rã chủ yếu về tình trạng chính tri và quân sự tại Việt Nam, trái lại, có bằng chứng về sự tiến bộ đáng phấn khỏii trong việc yểm trợ chiến đấu có hiệu quả của các lực lượng quân sự và an ninh.”

Thế nhưng, chưa đầy hai tháng sau, vào tháng 8 năm 1962, khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cử Joshep A. Mendenhal, một thành viên trong Toán Việt Nam của Harriman đến Việt Nam nghiên cứu tình hình thì mọi sự đã bị mô tả ngược lại.

Trong bản phúc trình ngày 16.8.1962 gởi cho Averell W. Harriman, Mendenhal đã nêu ra những điểm chính như sau: Việt Cộng đã gia tăng hoạt động tại Nam Việt Nam. Cuối năm 1959 có khoảng 2.000 quân, nay đã lên tới 20.000 quân, bởi vì chính phủ Ngô Đình Diệm không hữu hiệu và được lòng dân. Ông cho rằng “chúng ta không thể thắng cuộc chiến với các phương pháp của Diệm - Nhu” (we cannot win the war with the Diem - Nhu methods). Ông khuyến cáo phải bỏ ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những thành phần còn lại của gia đình nhà Ngô, và thay thế bằng những nhóm khác như: (1) hoặc Phó Tổng Thống Thơ và Tướng Dương Văn Minh; (2) hoặc Tướng Lê Văn Kim và Tướng Dương Văn Minh nếu Phó Tổng Thơ từ chối; (3) hoặc Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Thiên Chúa Giáo, vì ông ta có tư cách của một nhà chính trị tốt và biết làm thế nào để gây ảnh hưởng trong quần chúng. Muốn vậy phải tổ chức đảo chánh.

Mendenhal nhấn mạnh rằng cuộc đảo chánh phải nằm trong tay Hoa Kỳ, nhưng tránh đừng để dân chúng nghĩ rằng tân chính phủ là bù nhìn của Hoa Kỳ. Ông nói: “Vì chúng ta đã bị tố cáo là liên lụy đến cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 và cuộc ném bom Dinh Độc Lập năm 1962, nên các viên chức Hoa Kỳ phải âm thầm chọn lựa những người Việt Nam có khả năng làm đảo chánh (như Nguyễn Ngọc Thơ và Dương Văn Minh) và cho biết sẵn sàng ủng hộ một cuộc đảo chánh trong thời gian thích hợp. Chúng ta đứng đàng sau làm cố vấn, còn để cho người Việt thực hiện tất cả.”

Mendenhal nói rằng mục tiêu của cuộc đảo chánh là bắt giữ ngay lập tức ông Diệm và hai vợ chồng ông Nhu rồi đưa họ ra ngoại quốc ngay nếu trong tiến trình bắt giữ họ còn sống.

Đọc toàn bộ nội dung bản phúc trình này, chúng ta thấy hầu hết các đề nghị của Mendenhal đã được thi hành trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 và sau đó!

Khi được biết, với sự giúp đỡ của Pháp, chính phủ Ngô Đình Diệm đang tìm cách hòa hoãn với Bắc Việt để thoát ra khỏi áp lực của Hoa Kỳ, trong bản thông báo số 2352/63 đề ngày 14.9.1963, dưới tiêu đề “The possible of a GVN Deal with North Viet Nam”, CIA đã viết như sau: “Theo nhận định của chúng tôi (CIA), trở ngại không phải là việc Diệm hay Nhu “chuyển qua” (going over) phe Hồ... Sự nguy hiểm là ở chỗ Diệm và Nhu quan tâm đến những quyền lợi riêng của quốc gia họ...” (In our view, the problem is not one of Diem or Nhu’s “going over” to Ho... Instead, the dangers lie in the fact that Diem and Nhu consider their own interests to be those of their country...)

Harriman và các tay chân bộ hạ đã hình thành một kế hoạch đảo chánh rất chu đáo và tinh vi để lật đổ và tàn sát gia đình họ Ngô. Vụ Phât Giáo xẩy ra ngày 8.5.1963 chỉ là một trong những bộ phận của kế hoạch này. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi trình bày trong những bài khác.

Lữ Giang

Tags ·

Đọc nhiều nhất Bản in 01.04.2006. 05:30