Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Híp-ri (Do thái)

§ Lm Anrê Đỗ Xuân Quế, OP

Thư này thường được gọi là thư Do thái. Nhưng theo đề thư thì phải nói là Híp-ri vì gửi cho người Ebraiôs (Híp-ri) chứ không phải Iôudaiôs (Do thái).

Thư Híp-ri có thể làm cho độc giả thời nay ngỡ ngàng. Đọc thư, người ta vừa thán phục, lại vừa cảm thấy lạc lõng: thán phục vì đạo lý sâu xa và tình người đậm đà trong nhiều đoạn, lạc lõng vì nhiều chỗ thấy chơi vơi, không biêt phải hiểu như thế nào. Tác giả có những kiểu nói độc đáo để khẳng định địa vị siêu việt của Đức Ki-tô, đồng thời lại diễn tả cách rất thực tế sự liên đới chặt chẽ giữa Người với các anh em của mình. Mỗi dòng chữ của thư chứng tỏ tác giả hiểu biết Cựu Ước thật cặn kẽ, và mỗi lời khuyên trong thư lại phát xuất từ một tấm lòng yêu thương Hội thánh rất sâu đậm.

Tuy nhiên, có một số điểm khiến người đọc lạc lõng. Tác giá nói nhiều đến lễ nghi và hy tế thời trước. Ông tỏ ra rất khéo léo giải thích các bản văn theo lối biểu tượng cũng như khi gợi lên những tương quan giữa các thực tại trần gian với những thực tại trên trời, giữa các sự kiện lịch sử với tính vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngoài ra, nguồn gốc của thư này lại đặt ra nhiều vấn đề phức tạp. Ngay từ những thế kỷ đầu, người ta đã tranh luận và tỏ ra hoài nghi. Sang đến thời Cải Cách, vấn đề lại càng thêm sôi nổi: tác giả thư này là ai, có phải là của Phao-lô không, sao lại ít giống các thư lớn của ngài như vậy, thư được viết cho ai, trong hoàn cảnh nào và có phải là một thư không ?

1. Nguồn gốc của thư

Trong bốn thế kỷ đầu, ý kiến về nguồn gốc thư này rất khác nhau cả bên Tây lẫn bên Đông. Trong Hội thánh Đông phương, thư Híp-ri vẫn được coi là của thánh Phao-lô. Tuy vậy, điều ấy vẫn không ngăn cản một số người nêu ra những khác biệt giữa thư Híp-ri và các thu khác

Để giải thích những khác biệt ấy, thánh Cơ-lê-men-tê thành A-lê-xan-ri-a coi thư này là một bản văn Hy-lạp mô phỏng lại một bản văn khác do chính thánh Phao-lô viết bằng tiếng Híp-ri,, vì thánh Cơ-lê-men-tê nghĩ gịọng văn ở đây có vẻ là của thánh Lu-ca. Sau đó ít lâu, giáo phụ O-ri-giên còn phân biệt rõ hơn nữa. Ông bảo tư tưởng là của thánh Phao-lô, nhưng lối viết chắc chắn không phải là của ngài. Thư Híp–ri là tác phẩm của môt môn đệ thánh Phao-lô. Tuy môn đệ này trung thành với tư tưởng của thày, nhưng cách trình bày là của đương sự. Nhưng môn đệ này là ai đây ? O-ri-giên nói không biết. Tuy vậy, ông vẫn hoàn toàn tin tưởng vào bản văn thánh kinh này. Những nhà chú giải khác ở phương Đông ít để ý đến phương diện lời văn, nên vẫn tin theo truyền thống Hội thánh của mình và khẳng định đây là một trong các thư của thánh Phao-lô.

Bên phuơng Tây, tình thế khác hẳn. Người ta đã biết thư này ngay từ cuối thế kỷ I, vì thư của thánh Cơ-lê-men-tê thành Rô-ma đã trích dẫn thư này. Nhưng thư này không được chấp nhận dễ dàng, Những nghi ngờ về nguồn gốc của thư làm cho người ta phân vân về giá trị linh hứng trong đó. Những người phân vân dùng chương 7 để bảo vệ những suy nghĩ kỳ lạ về con người Men-ki-xê-đê. Phe cứng rắn dựa vào 6,4-6 và 10,26 để khước từ tha thứ cho những người đã bỏ đạo trong thời cấm cách. Bè rối A-ri-ô dùng 3,2 để nói rằng Ngôi Lời chỉ lá một thọ tạo. Philastre de Brescia (Phi-lát đờ Bơ-rét-si-a) làm chứng rằng tất cả những điều đó đã khiến cho thư Híp-ri không còn được các giáo đoàn đọc nữa vào cuối thế kỷ IV, Riêng thánh Giê-ro-ni-mô thì cho rằng người Rô-ma không công nhận thánh Phao-lô là tác giả của thư này. Nhưng theo ngài thì đó chỉ là vấn đề phụ thuộc. Còn truyến thống của các cộng đoàn phương Đông lại công nhận thư Híp-ri là một phần của Kinh thánh. Thánh Âu-tinh cũng đồng ý như vậy.

Các thái độ lưỡng lự ngập ngừng đã chấm dứt ở thế kỷ IV, khi thu Híp-ri được xếp vào loại thư qui. Bởi vì thư này được xếp liền với các thư của thánh Phao-lô nên việc coi thánh Phao-lô là tác giả của thư H1p-ri càng thêm vững mạnh. Dù vậy, đến thời Trung cổ lại có lập trường gần giống lập trường của thánh Cơ-lê-men-tê nói trên, công nhận thư Híp-ri là một thư của thánh Phao-lô nhưng đã được thánh Lu-ca chuyển sang tiếng Hy-lạp, sau khi thánh Phao-lô qua đời.

2. Thời Cải Cách

Các cuộc tranh luận lại trở nên sôi nổi ở thời Phục Hưng. Người ta còn thấy dư âm trong bài Luther (Luy-te) chú giải thư này vào năm 1517-1518. Ông giải thích bản văn như là của thánh Phao-lô và thấy thư lặp lại đề tài chính yếu trong học thuyết của thánh nhân. Ông nói: ”Trong thư này, thánh Phao-lô đề cao ân sủng để chống lại sự tự phụ của những người công chính theo lề luật.” Tuy nhiên, ông cũng thấy rằng 2,3 là một lý rất mạnh để chứng tỏ thư này không phải là của thánh Phao-lô, vì theo câu đó, tác giả đã tự đặt mình vào số những người được nghe Tin Mừng qua trung gian các Tông đồ. Nhưng trong 13,19 Luther lại coi thánh Phao-lô là tác giả, vì có gợi đến việc ngải bị cầm tù.

Một vài năm sau, khi giới thiệu bản dịch Tân Ước của mình, Luther đã xác định: thư Híp-ri không phải là của thánh Phao-lô, nhưng ông vẫn thán phục tài dùng Kinh thánh của tác giả vô danh nào đó. Theo ông, có một vài đoạn gây khó khăn, như phủ nhận việc người ta có thể trở lại, nếu sau khi chịu phép rửa mà còn phạm tội, (6,4-6; 10,26; 18,17). Do đó, Luther cho rằng thư Híp-ri là một tác phẩm hỗn hợp.

Còn Calvin (Can-vanh) thì thấy không có gì phải dè dặt.. Ông nói: “Thư Híp-ri chắc chắn là một trong các thư của thánh Phao-lô.” Ông cho việc công kích thư là một thủ đoản của Satan. Nhưng không vì vậy mà ông coi thư Híp-ri là một tác phẩm của thánh Phao-lô. Sau đó lập trường của Thệ phản đã có những ý tưởng rất khác biệt. Trong thế kỷ XVI, hấu như ai nấy đều công nhận thánh Phao-lô là tác giả, Nhưng rồi sau đó, lập trường đối nghịch lại thắng thế.

Bên Công giáo, huấn quyền trong Hội thánh bao giờ cũng để ý đến truyền thống hơn, nên vẫn quan tâm bảo vệ ý kiến cho rằng thư Híp-ri đã bắt nguồn từ thánh Phao-lô. Nhưng bởi vì công đồng Tren-tô không xác định chính thánh Phao-lô là tác giả, nên một số học già công giáo chủ trương rằng tác giả là một môn đệ của thánh nhân. Đến đầu thế kỷ XX, người ta lại tranh luận sôi nổi. Ủy Ban Thánh Kinh phải can thiệp, cấm người công giáo không được phủ nhận thư này là của thánh Phao-lô, nhưng vẫn để cho người ta nghĩ rằng có lẽ không phải chính thánh nhân đã viết thư đó. Các nhà chú giải công giáo gần đây hiểu vấn đề tác giả thư Híp-ri một cách rộng rãi hơn. Có ý kiến cho rằng thư đã đuợc ông Apollos (A-pô-lô) sọan ra, sau khi thánh Phao-lô chịu tử đạo (C. Spicq, thư Híp –ri quyển 1, trang 260-261).

3. Vấn đề tác giả

Có nhiều bằng chứng ngược lại với ý kiến cho thánh Phao-lô là tác giả. Giọng điệu trong thư Híp-ri không phù hợp chút nào với tính tình của thánh Phao-lô. Lời văn quá êm đềm. bố cục đều đặn và cá tính của tác giả lại lu mờ. Từ ngữ khác biệt, các kiểu nói không phù hợp và ngay cả cách suy nghĩ về mấu nhiệm Đức Ki-tô cũng khác với tư tưởng của thánh Phao-lô. Trong thư Híp-ri, không tìm được các kiểu nói Ki-tô Giê-su hay trong Đức Ki-tô như trong các thư của thánh Phao-lô. Các câu trích Cựu Ước cũng chẳng bao giờ được trình bày hay giới thiệu như Kinh thánh viết, hay sách thánh chép rằng, hoặc sách thánh bảo mà chỉ được báo trước bằng câu: “Người nói”. Nhiều lần tác giả nói đến Đức Ki-tô được vinh thăng trên trời, nhưng chỉ một lần nói đến Người sống lại từ trong cõi chết.(13,20) và ngay cả lần đó cũng kh6ng dùng kiểu nói quen thuộc. Cách trình bày về chức tư tế của Đức Ki-tô cũng độc nhất vô nhị trong toàn bộ Tân Ước. Tóm lại, ông là một con người khác hẳn với thánh Phao-lô.

Có những người đã đi tới chỗ phủ nhận mọi liên lạc giữa nội dung bức thư với tư tưởng của thánh Phao-lô. Nhưng rõ ràng đó là một thái độ quá khích, vì về nhiều điểm quan trọng trong thư, người ta thấy hai bên rất giống nhau.

3,1 Cuộc Thương khó của Đức Giê-su được trình bày dưới khía cạnh vâng phục tự nguyện trong 5,8 và 10,9 cũng như trong Pl 2,8 và Rm 5,19

3,2 Sự vô hiệu của Luật cũ và việc bãi bỏ Luật được nói đến ở 7,11-19 và 10,1-10 cũng quyết liệt không thua gì Gl 3,21-25 hay Rm 4,15; 5,20. Trong tất cả Tân Ước, không tìm được ở đâu khác lời tuyên bố dứt khoát như vậy.

3,3 Ngay đề tài chính yếu của thư Híp-ri cũng chẳng tìm được những điểm tương đồng ở đâu khác hơn là trong các thư của thánh Phao-lô như 1Cr 5,7; Rm 3,25 và nhất là Ep 5,2. So sánh với Gl 3,20 và Ep 5,2.25, tính hy tế và tế tự trong công trình cứu chuộc được chú trọng hơn ở thư Híp-ri.

3,4 Sau cùng có sự giống nhau rõ rệt giữa các thư viết trong tù với thư Híp-ri về phương diện Ki-tô học. Chúa Con là hình ảnh của Thiên Chúa. Người được tôn vinh trên các thiên thần và nhận được một danh hiệu mới sau khi hiến tế mình làm hy lễ.

Bấy nhiêu bằng chứng căn bản nêu trên thiết tưởng đã đủ để cấm chúng ta không được coi thường giá trị của truyền thống phương Đông, khi họ tin bức thư này phát xuất từ thánh Phao-lô. Người ta cũng có lý do để nghĩ rằng một cộng sự viên của thánh nhân đã viết thư này. Còn việc xác định tác giả thư này là ai thì thật khó mà nói đươc. Truyền thống lưỡng lự giữa nhiều giả thuyết. Người ta đã nói đến Lu-ca, Cơ-lê-men-tê thành Rô-ma và Bác-na-bê. Nhưng không giả thuyết nào hội đủ bằng chứng. Vì thế, ngày nay người ta đã đưa ra nhiều đề nghị khác mà khả quan hơn cả có lẽ là của Luther. Ông đề nghị A-pô-lô vì ông này là người Híp-ri, được hấp thụ văn hóa Hy-lạp ở A-lê-xan-ri-a, thông thạo Kinh thánh và nổi tiếng là hùng biện (Cv 18,24-28; 1Cr 3,6). Đó là những điểm rất thích hợp với tác giả thư Híp-ri. Nhưng vì chẳng có truyền thống xa xưa nào nhắc đến tên ông, và cũng vì chẳng có tác phẩm nào khác của ông để so sánh nên đề nghị của Luther vẫn chỉ là một giả thuyết không thể kiểm chứng. Bởi thế, phải chấp nhận điều này là không thể biết đích danh tác giả của thư Híp-ri.

4. Thư Híp-ri là một bức thư hay một bài giảng?

Người ta quen gọi thư Híp-ri là một thư. Nhưng thư này không bắt đầu như những thư khác. Tuy vậy, không thể nói đề thư đã mất hay bị bỏ đi, vì câu đầu tiên là câu khai mào rất khác. Nhưng đó là câu đầu của một bài giảng chứ không phải của một bức thư. Toàn bản văn này có vẻ là một bài hùng biện. Tác giả chẳng bao giờ bảo mình đang viết, nhưng lúc nào cũng như bảo mình đang nói (2,5; 5,11; 6.9; 8,1; 9,5; 11.12}. Nội dung tác phẩm cũng chẳng có một yếu tố thư nào. Phải đợi đến những câu cuối cùng mới thấy gịong văn thay đổi (13,22-25). Những câu này đích thật là những câu kết của một bức thư đưa tin tức cho người ở xa và chào thăm như thường lệ. Nhưng giọng văn lại khác xa với những dòng mở đầu. Ngoài ra, trước đó đã có một câu rất long trọng (13,20-21) và đó đúng là câu kết thúc một bài giảng. Do đấy, người ta nghĩ rằng phải phân biệt trong tác phẩm có phần là bài giảng, đúng giọng văn nói (1,1-13-21) và có phần là một mẩu thư được đính kèm (13,22-25). Người ta có thể nghĩ rằng phần bài giảng thật sự đã được nói trước một cử tọa là tín hữu ở một hay nhiều nơi. Sau đó, người ta đã viết lại cho các tín hữu ở xa, tiện thể thêm một vài tin tức và lời chào hỏi. Rất có thể tác giả bài giảng không phải là tác giả của những lời thư. Nếu giọng văn của bài giảng không thể là của thánh Phao-lô thì qua những lời thư, người ta không thể chắc chắn được như vậy.

5. Thư viết cho ai ?

Bản văn không nói rõ gửi cho ai. Những chữ gửi người Híp-ri không thuộc thành phần bản văn. Các nhả chú giải ngày trước nghĩ rằng đó là những người Do thái sinh sống ở Pa-lét-tin và nói tiếng Do thái. Nhưng ngày nay không ai nghĩ như vậy nữa, bởi vì ai cũng thấy văn Hy-lạp ở đây không phải là văn dịch. Nhiều tác giả gần đây nghĩ rằng có thể bức thư đã được gửi cho người Do thái chưa theo Ki-tô giáo và đúng hơn cho các người Qumrân (Cum-ran). Nhưng không chắc như vậy, bởi vì bức thư không kêu gọi trở lại mà chỉ khuyên nên kiên nhẫn và tấn tới trong đức tin (3,6; 5,12; 6,9-12). Đàng khác, tuy thư có nhiều tương quan với các bản văn tìm được ở Qumrân gần Biển chết, nhưng cũng có liên hệ nhiều với trào lưu Do thái được Hy-lạp hóa, ấy là chưa kể ảnh hưởng của các thứ thuyết ngộ đạo nữa. So sánh như vậy, người ta thấy rõ bức thư phát xuất từ một mảnh đất thật phong phú. Môi trường soạn ra nó đã tỏ ra rất nhậy cảm với nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Nó được gửi cho những giáo đoàn không phải mới thành lập (5,12; 13,7), nhưng cũng không thể bảo các giáo đoàn này đã được xây dựng ngay từ buổi đầu của Hội thánh ở Pa-lét-tin. Thay vì quảng đại lúc ban đầu (6,10; 10,32-34), về sau người ta thấy mệt mỏi (5,11; 10,25; 12,3), rồi khi nhìn thấy các khó khăn mới, người ta đâm ra thất vọng (10,35-36; 12,4-7). Thêm vào đó còn có nguy cơ sai lạc vể đạo lý do khuynh hướng Do thái hóa.

6. Hoàn cảnh và thời gian

Câu kết của bức thư làm cho người ta nghĩ đến những hoàn cảnh cụ thể, nhưng lại bí ẩn khiến cho khó xác định được ở đâu và khi nào. Ti-mô-thê được thả ở đâu và khi nào ? Vì sao ông bị bắt ? Chẳng ai biết. Tác giả nói đến những người Ý, nhưng người ta chẳng biết họ ở đâu, khi có bức thư này. Việc độc giả quen biết một số giáo dân gốc Ý cũng không đủ để giúp cho biết rõ họ là ai..

Thời gian viết bức thư này cũng được phỏng đoán nhiều cách khác nhau. Người thì chú trọng đến mấy kiểu nói có vẻ cổ nên cho rằng thư đã được viết khá sớm, trước cả những thư quan trọng nhất của thánh Phao-lô. Người khác lại lui việe viết thư này tới cuối thế kỷ I và sau này. Nhưng vì thánh Cơ-lê-men-tê thành Rô-ma đã dùng thư này vào khoảng năm 25, nên không được lui quá xa. Đàng khác có những điểm giống nhau về Ki-tô học giữa thư Híp-ri và các thư viết trong tù, nên phải nghĩ đến một khoảng thời gian gần với khi thánh Phao-lô chịu tử đạo. Người ta có thể nghĩ rằng thư đã được viết vào những năm trước khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy tức năm 70, vì tác giả nói đến phụng tự trong đền thờ như một thực tại đang hiện hành.

7. Kết cấu của thư

Hoản cảnh xui khiến xuất hiện bức thư này không được rõ lắm, nhưng không có gì trở ngại, bởi vỉ dựa vào văn thể, người ta thấy rằng thư này không gắn liền với một hoàn cảnh cụ thể nào. Điều quan trọng hơn là phải tìm ra những nét chính trong kết cấu của thư.

Trước kia người ta phân biệt hai phần: đạo lý (1,1-10,18) và luân lý (1o,19-13,25). Nhưng cách chia như thế không hợp với ý của tác giả, bởi vì ngay từ đầu đã thấy xen lẫn những đoạn vừa trình bày đạo lý vừa khuyến dụ luân lý (2,1-4;3,3-4,16; 5,11-6,12) do mối bận tâm cần phải kết hợp đức tin và đời sống với nhau.

Lối phân chia thành ba phần; lời Chúa 1,1-4,13); chức tư tế của Đức Ki-tô (4,14-10,18); đời sống Ki-tô hữu (10,19-13,25) có thể là xác đáng, nhưng vẫn chưa điễn tả được hết các dữ kiện

Một cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng hơn cho thấy đây là cả một kỹ thuật bố cục rất chắc chắn với các thể thức hành văn gần với các truyền thống văn chương của Kinh thánh. Ngoài phần mở đầu và kết thúc (1,4; 18,25), người ta thấy có năm phần, mỗi phần được tác giả báo trước (1,4; 2,17; 5,10; 10,31.39; 12, 12-15)

7,1 Phần thứ nhất (1,5-7,18) Tác giả xác định danh Đức Ki-tô tức là địa vị của Người đối với Thiên Chúa (1,5-14) và đối với loài người (2,5-18). Muốn thế, tác giả phải so sánh với địa vị của các thiên thần rồi khẳng định về chức tư tế của Đức Ki-tô (2,17)

7,2 Phần thứ hai (3,1-5,10) Phần này chứng minh rằng nơi Đức Ki-tô đã thực hiện đầy đủ hai đặc tính căn bản của mọi chức tư tế là được uy tín nơi Thiên Chúa (3,1-6) và liên đới với loài người (4,15-5,10). Địa vị của Đức Ki-tô như gồm cả địa vị của ông Mô-sê (3,2) lẫn địa vị của ông A-ha-ron (5,4). Khi so sánh như vậy, tác giả xen vào giữa lời khuyên tín hữu phải trung thành (3,7-4,14).

7,3 Phần thứ ba (5,11-10,39) Phần này quảng diễn giáo lý về chứ tư tế của Đức Ki-tô bằng cách nêu lên những nét đặc sắc của chức tư tế này: Người là một Thượng tế theo kiểu mới hẳn (7,1-28), hy tế của Người khác xa mọi nghi lễ cũ và mở đường cho ta tiến vào cung thánh chân thật (8,1-9,28). Người đã làm cho ta được ơn tha tội. Như vậy, hy tế của người đã chấm dứt chức tư tế xưa thuộc Giao ước và Luật cũ. Phần thứ ba này quan trọng hơn các phần khác nên có một đoạn mở đầu (5,11-6,20) và một đoạn kết thúc (10,19-39).

7,4 Phần thứ tư (11,1-12,13): Phần này nhấn mạnh đến hai phương diện trong đời sống thiêng liêng là sống đức tin theo gương các tiền nhân (11,1-40) và nhẫn nhục (12,1-13), để đưa các tín hữu đi vào con đường mà cuộc hy tế của Đức Ki-tô đã mở ra.

7,5 Phần thứ năm tức phần cuối cùng phác họa một bức tranh về đời sống Ki-tô hữu, để kêu gọi ai nấy dấn bước vào con đường thánh thiện và bình an.

8. Chức tư tế của Đức Ki-tô

Phần đóng góp quan trọng hơn cả của thư Híp-ri về phương diện đạo lý là trình bày chức vụ tư tế của Đức Ki-tô. Quả vậy, thư này là tác phẩm duy nhất trong Tân Ước tuyên xưng Đức Ki-tô là tư tế và là thượng tế. Đó là một sự kiện vô cùng quan trọng. Nhờ vậy, người ta mới thấy tương quan giữa đức tin Ki-tô giáo và một trong những luồng tư tưởng chính của truyền thống Kinh Thánh nói về vấn đề phụng tự là nghi thức, hy lễ, tư tế và đền thờ.

Mới nhìn thì không thấy con người và sự nghiệp của Đức Ki-tô với cách trình bày về tôn giáo như vậy. Người không thuộc hàng tư tế thì chẳng bao giờ muồn làm một chức vụ tư tế nào. Biến cố Núi Sọ cũng chẳng có gì là nghi lễ. Cái chết của Đức Ki-tô là một cực hình do luât pháp ấn định, một bản án ô nhục loại người ta ra khỏi cộng đồng Dân Chúa, đang khi hy lễ là một cử hành tế tự tôn vinh Thiên Chúa và kết hợp tín hữu với Người.

Muốn cho tính hy lễ của mâu nhiệm Thương khó-Phục sinh nổi bật thì phải vượt qua hai điều: một lả dẹp bỏ quan niệm hẹp hòi của người xưa về việc thi hành các thứ nghi lễ, hai lả đi từ cái bề ngoài để đạt tới ý nghĩa sâu xa của biến cố. Nhờ lời các ngôn sứ (Is 53,10) và lời Đức Giê-su (1 Cr 11,25) linh hứng, lại nhờ được hướng dẫn do một vài hoàn cảnh như cuộc Thương khó xảy ra trong dịp lễ Vượt Qua, người ta đã dần dần nhận ra chân lý trên (x 1 Cr 5,7; Rm 3,15; Ep 5,2; 1 Pr 1,19).

Chính Đức Ki-tô phục sinh mới có chức tư tế hoản toàn. Người vừa là Con Thiên Chúa vừa là anh em của loài người. Người bảo đảm cho chúng ta tới được cung điện của Thiên Chúa. Như vậy, Người là vị Thượng tế. Chức tư tế của Người tiếp nối và vượt qua chức tư tế của A-ha-ron (5,4-5). Như lời thánh vịnh 110, Thiên Chúa muốn thiết lập một chức tư tế mới hẳn theo phẩm hàm Men-ki-xê-đê (7,1-28). Cuộc Thương khó và Phục sinh của Đức Ki-tô là một hy lễ. Phải nói rằng đó là hy lễ đích thật duy nhất, để thay thế mọi hy lễ xưa là những hy lễ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, dựa vào những cử chỉ làm theo qui ước mà không thanh tẩy được lương tâm con người (9,9-10,1-4), cũng chẳng đưa người ta lên củng Thiên Chúa. Trái lại, cuộc Thương khó của Đức Ki-tô là một lễ dâng chính bản thân một triệt để (9,14), làm cho con người vâng phục thánh ý Thiên Chúa (5,9; 10,.9-10) khiến con người được đỗi mới hoàn toàn và bước vào vòng thân tình với Thiên Chúa. Nhờ cuộc Thương khó, Đức Ki-tô đã trở thành tư tế thuộc thiên giới (9,24). Người đã thanh tẩy tội lỗi và thiết lập giao ước mới và vĩnh cửu (9,15; 13,20). Máu của Người bảo đảm cho chúng ta tiến đến gần Thiên Chúa (10,19). Đó là một kỳ công của Thiên Chúa, một đặc ân ban cho con người, bởi vì chính Thiên Chúa đã thực hiện việc biến đổi con người cách sâu xa nơi Con Một của Người.

9. Thân phận người Ki-tô hữu

Từ nay thân phận người Ki-tô hữu được định nghĩa theo tương quan tư tế mới trình bày ở trên. Phụng vụ đền tội xưa chỉ là những sáng kiến bất lực báo trước những thực tại sẽ được thực hiện trong hy lễ của Đức Ki-tô, Đấng đại diện cho ta trước mặt Thiên Chúa (7,35; 9,24) Đức Ki-tô mở đường cho ta đi theo Người mà tin tưởng đến gần Thiên Chúa (4,16; 7,19; 10,22). Tội lỗi của ta đã được xóa bỏ (9,26; 10,22); kẻ thù của ta đã bị đánh bại (2,14); chúng ta được vĩnh viễn và hoàn toàn giải thoát (7,15; 9,12) Từ nay Ki-tô hữu được dự phần vào ân lộc của thế giới tương lai (6,4-5). Họ đã được Nước Trời. Đối với họ, kỷ nguyên mới đã bắt đầu.

Nhưng không phải họ đã đạt tới đích đâu. Ơn gọi của họ chưa được thực hiện hoàn toàn. Cuộc đời của họ còn tiếp diễn trên trần gian, nơi không phải là quê hương vĩnh cửu của họ, nên họ còn phải tiến mãi về quê hương đích thật. Họ còn phải chờ cuộc quang lâm của Chúa Cứu thế (9,28). Họ đã thoáng thấy ngày của Chúa nhưng chưa nhìn thấy thật sự.

Liên lạc của họ với Thiên Chúa qua Đức Ki-tô rất chân thật và thân thiết, nhưng còn phải diễn ra trong đức tin. Chỉ có đức tin mới làm cho họ ngay từ bây giờ đi vào vòng kết hợp thân tình với Thiên Chúa (4,3). Nếu hoài nghi, mất tin, họ sẽ phải xa lìa Đức Ki-tô (3,14) và Thiên Chúa: họ sẽ bị lưu vong (10,39)

Không còn đối lập giữa đức tin và các việc làm như trong các thư trước của thánh Phao-lô nữa mà trái lại, trong thư Híp-ri, đức tin được biểu lộ qua việc làm và những gì có giá trị trong Cựu Ước đều lấy đức tin làm nền tảng. Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh rằng trong hoàn cảnh đầy thử thách hiện nay, đức tin còn cần được bổ sung thêm bằng lòng kiên nhẫn (6,12; 10,36; 12,1-13). Đức Ki-tô đã nhận lấy khổ đau và sự chết của loài người mà biến thành con đường vinh hiển cứu chuộc chúng ta, không phải miễn cho chúng ta khỏi đương đầu với thực tại ấy, nhưng để chúng ta biết đương đầu với chúng mà giữ vững niềm hy vọng (12,2-3)

Mặc dầu nhấn mạnh đến hiệu lục viên mãn của hy lễ duy nhất là hy lễ của Đức Giê-su Ki-tô, tác giả vẫn không ngần ngại trình bày đời sống Ki=tô hữu như là một cuộc hiến dâng (13,16). Tác giả không ngừng khuyến khích tín hữu dâng lên Thiên Chúa hy lễ tạ ơn nhờ Đức Ki-tô (13,15) và quả quyết rằng đời sống phục vụ và bác ái rất có giá trị hy tế (13,16). Theo gương hy sinh của Đức Ki-tô và kết hợp với Người, tín hữu không thờ Thiên Chúa bên ngoài cuộc đời của mình, nhưng bằng chính đời sống cụ thể của bản thân, nghĩa là đoàn kết với nhau, săn sóc cho nhau (3,12; 4,1-11; 10,24; 12,15), vâng phục cấp lãnh đạo (13,17). Ngoài ra, cử hành phụng vụvà giảng thuyết cũng là một phần quan trọng trong tiến trình này (2,1-3; 4,2; 5,11); 6,4; 10,19 -22. 29; 13,10).

Kết luận

Thư Híp-ri là một thư khó. Phải cố gắng mới đọc được. Nhưng cố gắng ấy sẽ được đền bù. Trong thư này, ý của tác giả là làm cho ngừoi ta hiệp thông với Thiên Chúa, trình bày giáo lý về Đức Ki-tô, đưa ra những khó khăn của đời sống Ki-tô hữu.

Đối với chúng ta ngày nay, nhất là những người đang bị lạc hướng và cảm thấy chán nản, đóng góp của thư Híp-ri rất quí giá, vì nó giúp chúng ta đào sâu đức tin và gắn bó mật thiết hơn với Đức Ki-tô.

(viết dựa theo TOB ấn bản 1994 trang 2917-2925)

Lm Anrê Đỗ Xuân Quế, OP

Đọc nhiều nhất Bản in 30.11.2009. 11:10