Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Phân Biệt Ngày Và Đêm

§ Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nguồn: nguoitinhuu.com

Trong kho tàng khôn ngoan Ấn giáo, có một câu chuyện minh triết kể về vị đạo sĩ và người học trò.

Vị đạo sĩ hỏi người học trò: - Đâu là lằn mức giữa đêm và ngày? Lúc nào ngày bắt đầu? Lúc nào đêm chấm dứt?

Người học trò suy nghĩ. Vị đạo sĩ bảo người học trò vẽ lằn mức mặt trời mọc đến đâu là ngày, chia ranh giới nào là hết đêm.

Im lặng, nhíu thêm đôi mày. Thời gian trôi qua. Không ngờ câu trả lời khó vậy. Người thanh niên thầm nhủ: Ta nhìn bình minh biết bao lần, thức dậy biết bao buổi sáng, mấy mươi năm trong đời chưa một lần phân biệt: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?.

Sau thời gian suy nghĩ, người học trò không sao vẽ được lằn mức giữa ngày và đêm. Anh đánh bạo trả lời tôn sư:- Thưa Thầy, lúc mặt trời cho con đủ ánh sáng phân biệt được con chó khác con mèo, đó là ngày.

Vị đạo sĩ lắc đầu, hỏi người học trò: - Phân biệt con chó khác con mèo nhưng đủ ánh sáng để phân biệt cành trúc khác cành tre không?

Người học trò im lặng chưa biết nói gì. Tôn sư anh ta lắc đầu nói tiếp: - Đấy không phải tiêu chuẩn phân biệt ngày và đêm con ạ. Đủ ánh sáng phân biệt con chó với con mèo, nhưng bao nhiêu ánh sáng mới đủ phân biệt cây trúc với cây tre? Vả lại gần bao nhiêu thì rõ để gọi là chó, xa bao nhiêu là tối để có thể lẫn là mèo?

Sau cùng, người học trò tự thú: - Thưa Thầy, từ lúc Thầy đặt câu hỏi con mới để ý khi mặt trời mọc. Con không vẽ ranh giới được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm kết thúc. Con thức giấc mỗi sáng mà không biết lúc nào gọi là ngày, lúc nào hết đêm.

Vị đạo sĩ trầm tư: - Con ạ, cuộc đời nhân gian đêm nhiều hơn ánh sáng. Người ta không tỉnh thức nên sống trong đêm tối mà cứ ngỡ ban ngày. Người ta thức dậy mỗi ngày mà không biết ngày bắt đầu lúc nào, làm sao gọi là thức dậy?

Người học trò im lặng trong ý nghĩ riêng tư, hỏi nhà đạo sĩ: - Thưa Thầy, người ta không quả quyết được lúc nào đêm chấm dứt. Có phải ý Thầy muốn nói, như thế, thức dậy cũng chưa chắc là hết bóng đêm không?

- Đúng thế, con ạ. Thầy muốn dạy con hai điều. Điều thứ nhất, con đã phí phạm biết bao bình minh, mấy mươi năm trong đời nhìn mặt trời mà không biết đâu là ngày, đâu là đêm. Điều thứ hai, ngày tháng còn lại của con, con phải trả lời câu hỏi của Thầy: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt? Bao nhiêu năm thiền niệm trên ngọn núi này, ngày ngày Thầy nhìn mặt trời mọc trên biển tìm câu trả lời. Thầy thức giấc nửa đêm trăn trở vì câu hỏi ấy. Thầy ra ghềnh đá chờ ánh mặt trời, Thầy lấy hết tâm trí nhìn bóng tối lụi dần mà không vẽ nổi lằn ranh biên giới lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Cho đến một ngày kia…

Nói đến đó nhà đạo sĩ im lặng. Mắt ông ngời sáng, nhìn xa xôi về phía chân trời. Người học trò lắng nghe.

Đợi người học trò thật yên tĩnh, nhà đạo sĩ nói với môn sinh: - Con ạ, thật sự không thể vẽ lằn mức được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt!

Người học trò như ngạc nhiên, chăm chú lắng nghe. Tôn sư ôn tồn xác định lần nữa câu nói của ông bằng cách cắt nghĩa cho người học trò:- Không thể phân biệt được biên giới giữa đêm và ngày cũng như không phân biệt được bao nhiêu của cải là hạnh phúc, thiếu bao nhiêu là chưa đủ!

Ngập ngừng đôi giây, vị đạo sĩ nói như lời tâm sự thân tình với học trò:- Thách đố bởi câu hỏi khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Thầy mải mê đi tìm trong văn chương triết học, trong thần bí niệm tu, cho đến một ngày biết mình không còn sống bao lâu mà vẫn không tìm được câu trả lời. Lúc đó Thầy buồn khôn tả, biết mình nhỏ bé trước biển cả và mặt trời. Thầy cúi đầu xin Thượng Đế cho Thầy được chết bình an. Thầy xin Thượng Đế cất đi câu hỏi đã dằn vặt Thầy. Thầy không còn cách nào trả lời câu hỏi ấy. Trong văn chương triết học, Thầy đã thất vọng, trong thần bí niệm tu, Thầy đã ráng sức cả đời. Càng suy nghĩ càng thấy mình nhỏ bé, sau cùng, Thầy chỉ còn biết xin Thượng Đế thương xót, đừng hỏi nữa cho tâm hồn Thầy thảnh thơi.

Khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt? Không trả lời được con ạ. Đâu ngờ, chính lúc Thầy xin Thượng Đế cất câu hỏi ấy đi, Ngài lại trả lời cho Thầy. Một ánh sáng êm dịu vô ngần nhẹ nhàng đậu xuống linh hồn Thầy, cho Thầy một trí hiểu đơn sơ, một niềm vui kín đáo, một năng lực sống trọn vẹn vì một khám phá: Đời quá đẹp con ạ!

Nói tới đó, nhà đạo sĩ như phiêu du vào một vùng trời rất đỗi bình an. Người học trò chăm chú kỹ hơn, lắng nghe.

- Con ạ, Thượng Đế nói cho linh hồn Thầy rằng, lúc nào Thầy nhìn con, thấy bóng dáng Thượng Đế trong con, lúc nào Thầy nhìn ai cũng chỉ thấy là bạn hữu, đó là ngày! Lúc nào Thầy nhìn người khác mà tức giận, ghen ghét, tham lam, thù hận, thì đấy là đêm! Ánh sáng để phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu. Đi giữa ban ngày mà trong trái tim trĩu nặng, u hoài thì vẫn vẫn là bóng đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.

Vị đạo sĩ nhìn người học trò rất đỗi nhân ái mến yêu. Từ từ nhắm mắt. Im lặng, linh thiêng và bình an, ông lặng lẽ xuôi hồn về thế giới bên kia.

Ông đã chết. Ông về với ánh sáng, nơi chỉ có ngày, không còn đêm nữa. Ông ra đi, để lại cho người học trò câu trả lời lúc nào là đêm, lúc nào ngày bắt đầu.

Người học trò vĩnh viễn xa tôn sư. Vị đạo sĩ đã chết bình an sau khi để lại cho người học trò ánh sáng mà ông đã kiếm tìm.


Câu chuyện gợi lên những ý tưởng giúp suy niệm Tin mừng Chúa nhật hôm nay.

Vị đạo sĩ dành cả đời mình để khám khá ra nguồn ánh sáng: gặp ai cũng thấy là anh em, đó là ngày. Nói theo ngôn ngữ của Chúa Giêsu: ai cũng là anh em, ai cũng là bạn hữu, yêu thương anh em (Ga 15, 2) và yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình (Mt 6, 44). Đó là đường lối của Đấng "là đường là sự thật và là sự sống". Theo Chúa Giêsu, làm người luôn phải biết "chạnh lòng thương". Đây là ánh sáng Tin mừng. Gia sản quý báu mà Chúa để lại là nghĩa cử hy sinh mạng sống chính mình vì yêu nhân loại. Tình yêu ấy trở nên một giới răn mới " anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu đến hiến mạng để sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới. Bởi đó: "tình yêu cao quý nhất là hy sinh tính mạng vì bạn hữu" (Ga 15, 13).

Tin mừng hôm nay kể câu chuyện về tình thương của Chúa Giêsu. Sau một chuyến đi thực tập truyền giáo trở về, các Tông đồ sung sướng kể lại những thành quả tốt đẹp đã gặt hái. Nghe xong, Chúa bảo các môn đệ vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi. Thầy trò lên thuyền, ngược gió nên thuyền đi chậm. Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé vào. Chúa thật sững sờ khi thấy đám đông. Những bước chân nôn nao, những thao thức hối hả của họ đã khiến Chúa rung động tận cõi lòng. Chúa đã "chạnh lòng thương" vì "họ như đàn chiên không người chăn dắt". Tình thương vô bờ bến đã khiến Chúa Giêsu nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Chúa không nghỉ ngơi nữa mà tiếp tục giảng giải cho họ nghe. Chúa đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Người luôn giúp đỡ, không bao giờ từ chối: "Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó" (Cv 10, 38). Đối với Chúa Giêsu, con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và yêu nhau. Làm người cần có lòng nhân ái, sống cho mọi người, cảm thương mọi người kể cả thù địch, ưu ái những người khổ đau nghèo khó và bị khinh khi áp bức. Ánh sáng để phân biệt đêm và ngày chính là lòng nhân ái.

Là Thiên Chúa làm người, Chúa Giêsu là bậc thầy dạy môn sinh với phương pháp sư phạm độc đáo. Bài học quan trọng nhất, tuyệt vời nhất là bài học "chạnh lòng thương", bài học về Tình Yêu. Con người không thể nào hiểu được Mầu Nhiệm Thiên Chúa là Tình Yêu, ngày nào họ chưa biết yêu thương và chưa thực hành yêu thương.

Chúa đã dạy các môn sinh yêu thương từng bước một, chỉ cho thấy ánh sáng phân biệt đêm và ngày dọc theo năm tháng trên mọi nẻo đường truyền giáo. Những ngày đầu theo Thầy, các môn đệ học bài học căn bản "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39). Sau một thời gian Thầy trò sống bên nhau, Chúa nâng các môn đệ lên một tầm cao mới của yêu thương "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Một tình yêu vô vị lợi với tha nhân.

Tâm huyết của Thầy cũng là giới răn mới Thầy để lại cho môn sinh "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15, 12). Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu thương nhau.

Sự viên mãn của Chúa Giêsu là viên mãn của tình yêu và sự sống. Sống để yêu, sống trọn vẹn và yêu trọn vẹn. Sống là yêu, yêu là sống. Yêu và sống là một thực tại, bởi vì chỉ có một Thiên Chúa, Người là sự sống và là tình yêu.

Tình yêu của Chúa lớn lao hơn trời, mênh mông hơn biển. Vì thế Chúa có thể mời gọi chúng ta: "Hãy ở trong tình yêu của Thầy" (Ga 15, 9). Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì thì phải giữ các điều răn, mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Muốn ở trong Thầy thì phải ở trong nhau.

Yêu thương trọn vẹn là sống trọn vẹn. Lòng nhân ái mãi luôn là ánh sáng đưa con người vào khung trời hạnh phúc.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đọc nhiều nhất Bản in 22.07.2006. 08:54