Trích từ Dân Chúa

"Con người đã khám phá ra trong thời gian tất cả sự thật về thiên nhiên tạo vật cũng như về chính bản thân mình"

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Hướng về Tân Xuân Đinh Hợi 18/2/2007

Thời Gian Hiện Thân nơi Không Gian

Nói đến thời gian là nói đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Thế nhưng, có thể nói, nếu không có con người cũng không có thời gian… Tại sao? Tại vì, trong tất cả mọi sự thuộc thế giới không gian, tức thế giới thiên nhiên tạo vật, chỉ có con người mới nhận thức được thời gian, mới đi làm lịch sử, mới tiến hóa theo thời gian, nói đúng hơn, mới làm cho thời gian đạt được mục đích hiện hữu của nó với vai trò là một thực tại trung gian, một thực tại qui hướng về vĩnh cửu, về Thực Tại Thần Linh toàn hảo tối thượng là cùng đích của tất cả mọi sự nói chung và nhất là của loài linh ư vạn vật nói riêng. Bởi thế, không có con người, thì dù hiện hữu, giá trị của thời gian sẽ là gì và ở chỗ nào? Phải chăng nó là một tiến trình mù quáng của vật chất, của thiên nhiên tạo vật?

Vẫn biết không gian và thời gian đồng qui ở chỗ hữu hạn, ở chỗ có cùng, có bắt đầu và có kết thúc, và dù cho thời gian và không gian có hội ngộ nhau ở bốn mùa thời tiết xuân, hạ, thu, đông, vì “thời” đây là thời gian và “tiết” đây thuộc về không gian. Thế nhưng, theo hiện tượng vật lý, thời gian hoàn toàn tùy thuộc vào không gian và được con người sử dụng làm phương tiện đo đếm không gian. Bởi vì, theo con người hiểu biết và khám phá về khoa học, ngày giờ năm tháng của thời gian trên trái đất này lệ thuộc vào cuộc xoay vần vận chuyển của không trung vũ trụ, như một ngày là do kết quả của một vòng xoay (rotation) của trái đất chung quanh chính tâm trục của nó, hay một năm là do kết quả của một vòng quay (movement) của trái đất chung quanh mặt trời v.v. Ở những nơi có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, như ở Hoa Kỳ hay ở miền Bắc Việt Nam, thì ngày dài vào mùa hè và đêm dài vào mùa đông. Thế nhưng, vấn đề cần phải giải quyết ở đây là thái dương hệ, tiêu biểu cho không gian vũ trụ đây, được hình thành từ lúc nào và bắt đầu hoạt động chuyển vận của nó như thế bao lâu rồi?

Đó là lý do, theo triết lý, nếu không gian vũ trụ hay thiên nhiên tạo vật không tự mình mà có thì nó phải có trong thời gian và tồn tại cũng như phát triển theo thời gian. Theo quan sát khoa học, nếu xẩy ra đúng như định luật tự nhiên, thì mọi sự, nhất là loài sinh vật, xuất hiện ở một lúc nào đó, rồi phát triển theo thời gian, cho đến khi hết thời của nó. Chẳng hạn, sau cuộc ân ái của vợ chồng vào đúng thời gian trứng rụng của người vợ, thì bình thường trong thời gian tối đa 48 tiếng là người vợ có thể mang bầu, và qua thời gian ấn định 9 tháng 10 ngày sau đó là người con ra đời; và con người mới này, sau khoảng thời gian ấu nhi và thiếu nhi, họ sẽ bắt đầu tiến vào thời gian dậy thì, thời gian phát triển sinh lý, với những phát triển mới mẻ trên thân xác liên quan đến cơ phận sinh dục của họ v.v. Thế rồi, cũng theo tiến trình bình thường, vào một thời gian nào đó, 70 tuổi hay 100 tuổi, cuối cùng, con người sẽ qua đi. Không phải con người chết là hết thời mà là vì hết thời của mình nên con người chết đi. Bởi thế, sau khi con người chết đi, thời gian vẫn còn đó. Và dù con người có muốn làm chủ thời gian, ở chỗ, họ muốn chết vào ngày giờ do họ ấn định, bằng cách tự tử đi nữa, họ vẫn lệ thuộc vào thời gian, bởi vì, những vụ tự tử không thành đã hùng hồn chứng thực điều này, do đó, những vụ tự tử thành công cũng chính là lúc thực sự hết thời của con người tuyệt vọng chán đời.

Thời Gian là Thực Tại Tỏ Hiện

Như thế, thời gian có tính cách thần linh, chất chứa nơi nó tất cả những dự định thần linh, được thể hiện qua các định luật tự nhiên, những định luật mà bất cứ tạo vật nào, nhất là sinh vật, cách riêng loài người, đến nỗi, một khi cả dám làm ngược lại hay chống lại, con người có lý trí khôn ngoan suy xét và có tự do chọn lựa lành dữ sẽ phải chịu một hậu quả tai hại khôn lường. Điển hình là nếu họ uống thuốc ngừa thai họ có thể sẽ bị ung thư ngực, uống kích thích tố (hormone) sau khi hết kinh nguyệt để giữ nét trẻ trung có thể sẽ dễ bị mục xương, ăn nhiều quá sẽ bị bội thực, uống rượu nhiều quá sẽ bị say. Tại sao ở Mỹ ung thư là một tác nhân đệ nhất sát hại mạng sống con người cả nam lẫn nữ như thống kê cho thấy, nếu không phải con người ở đây đã ăn uống mọi sự hầu như có chất hóa học, kể cả thịt thà được cung cấp từ những con vật được nuôi bằng những chất dinh dưỡng hóa học, hay rau cỏ được tưới bón bằng những thứ phân hóa học. Sự kiện suy diễn này không biết có chính xác hay chăng, chỉ biết rằng, ngày xưa, khi còn sống sát với thiên nhiên, còn ăn tươi nuốt sống những thứ có thể cho được vào bụng, thì con người sống khỏe mạnh và thọ hơn con người văn minh vật chất sau họ!

Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là con người phải sống theo thời gian, phó mặc cho định mệnh là những gì vốn chất chứa trong thời gian và là những gì sẽ được hiện lộ khi tới thời điểm (time) của nó, khi tới lúc (moment) của nó. Chẳng hạn như bị bệnh nguy tử không chịu chạy chữa, cho rằng, nếu hết thời của mình thì dù có đi bác sĩ hay uống thuốc tiên cũng chết. Đúng thế, sinh vật nói chung và con người nói riêng, vì sống trong thời gian và hoàn toàn lệ thuộc vào thời gian, nếu hết thời của mình thì tự nhiên sẽ qua đi, không thể thoát được, dù có đề phòng cách mấy đi nữa. Tuy nhiên, định luật tự nhiên cũng bao gồm cả định luật bảo tồn và tự vệ, định luật khôn sống mống chết, như vẫn thấy nơi loài thú vật. Nếu đói không ăn, theo định luật tự nhiên, con người chắc chắn sẽ chết thế nào, thì bị bệnh nguy tử không chữa, theo định luật tự nhiên, họ cũng khó lòng thoát được bàn tay tử thần như vậy. Bởi thế, cái chết của con người không chịu chữa trị khi bị bệnh nguy tử đây không phải bị gây ra bởi họ buông xuôi theo định luật tự nhiên cho bằng chỉ vì họ đã đi ngược chiều với định luật tự nhiên, định luật bảo tồn, khuynh hướng sinh tồn. Tai nạn xẩy ra hay tất cả mọi tai ương biến loạn trong thiên nhiên vũ trụ nói chung và trong xã hội loài người nói riêng này, kể cả nhân tai lẫn thiên tai, không phải đã bị gây ra bởi những hiện tượng hay sự kiện ngược ngạo và đối địch nhau liên quan đến định luật tự nhiên hay sao?

Thế nhưng, nói chung, như lịch sử loài người cho thấy, qua giòng thời gian hiện hữu của mình, từ thời ăn lông ở lỗ sống để mà ăn như con vật, đến thời điểm văn minh văn hóa ăn để mà sống thuần túy loài người hiện nay, con người càng ngày càng khám phá ra sự thật về thiên nhiên tạo vật nói chung nhất là về chính bản thân mình nói riêng. Qua thời gian, con người đã không khám phá ra thiên nhiên tạo vật chung quanh mình bằng những khám phá khoa học hay sao, về đủ mọi lãnh vực, từ bầu trời cao đến đáy biển cả, từ đại không gian đến tiểu vũ trụ, nhất là về lãnh vực tạo sinh cải giống từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 và đầu thiên kỷ thứ ba hiện nay hay sao? Cũng qua thời gian, con người đã thực sự khám phá ra chính mình, bằng việc ý thức được mối liên hệ đại đồng, một mối liên hệ chỉ được tồn tại nếu xã hội loài người muốn duy trì và phát triển, ở chỗ, con người cần phải nhìn nhận, tôn trọng và bảo vệ phẩm giá cùng quyền lợi làm người bẩm sinh của mỗi người cũng như của mọi người trong xã hội, như được ý thức và công bố trong Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc năm 1948 sau hai trận Thế Chiến Thứ I & II.

Thời Gian Nên Trọn nơi Con Người

Nếu qua thời gian, con người đã khám phá ra trong thời gian tất cả sự thật về thiên nhiên tạo vật cũng như về chính bản thân mình như thế, một sự thật đã có trước họ và tồn tại sau khi từng thế hệ nhân gian của họ qua đi, và nếu họ biết sống đúng với sự thật ấy, họ sẽ chẳng những có thể làm chủ trái đất, mà còn có thể làm chủ cả thời gian nữa. Thật vậy, nếu sự thật là một thực tại bất biến, một thực tại chi phối tất cả không gian, được từ từ hiện lộ trong thời gian và được khám phá thấy bởi nhân gian, thì một khi con người đã biết lợi dụng sự thật tự nhiên bằng khả năng khoa học của mình để làm chủ trái đất này thế nào, họ cũng có thể biết lợi dụng cả sự thật về con người nhân bản của mình bằng ý thức luân lý, nhờ đó họ làm chủ được cả thời gian như vậy. Vì sống trong sự thật và sống theo sự thật, một thực tại bất biến, một thực tại tối thượng, con người hữu hình và hữu hạn, cho dù có chết về phần xác, có bị thiếu hụt về thể lý, tâm lý và luân lý trên đời này, họ sẽ không bao giờ qua đi, không bao giờ cảm thấy thiếu thốn, trái lại, họ sẽ vĩnh viễn tồn tại, có thể nói, họ đã đạt đến cùng đích của mình ngay khi họ còn sống trong thời gian. Hay nói cách khác, thời gian cô đọng lại nơi con người sống sự thật, hội tụ lại nơi con người sống trong sự thật. Nếu không gian thu hẹp lại nơi con người sống yêu thương thế nào, hay không gian được yêu thương bao trùm thế nào, thì thời gian cũng tụ lại nơi con người chân thực như thế, hay thời gian được chân lý bao trùm như vậy.

Đó là lý do thực tế cho thấy, con người khôn ngoan, một khôn ngoan trung thực phản ánh sự thật, là một con người sống hiện tại với cả quá khứ lẫn tương lai. Bởi vì, tất cả những gì họ tác hành, hay phản ứng, hoặc giải quyết, trong giây phút hiện tại và cho cuộc sống hiện tại của cá nhân họ, những gì liên quan đến cả xã hội hay cho xã hội, họ đều căn cứ vào những kinh nghiệm sống họ đã được truyền thụ bởi các bậc tiền bối cha ông họ, nhất là do chính họ rút tỉa được từ cuộc sống riêng tư trong thời gian quá khứ của họ, để làm sao cho bản thân họ cũng như cho chung nhân gian chẳng những được tồn tại mà còn phát triển, hầu đạt đến một chân trời tương lai rạng ngời chân lý và thiện hảo, đúng như dự án thần linh của Thượng Trí Quan Phòng là Chân Lý Tối Cao và là Nguyên Lý Đệ Nhất. Một con người sống sự thật, hay sống trong sự thật, sống theo sự thật, là một con người làm chủ thời gian, làm cho thời gian được kết tụ lại nơi họ, ở chỗ họ đang sống trung thành, trước sau như một, sống thủy chung (từ đầu đến cuối), bất chấp mọi bất trắc và ngãng trở xẩy ra trong cuộc sống. Dù trước mắt thế gian họ có bị coi là ngu dại, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Họ có chết đi cho chân lý và vì chân lý, như trường hợp của những con người tranh đấu cho công lý và hòa bình, hay như trường hợp của những vị tử đạo chân chính, những anh hùng vị quốc vong thân, nhân gian lịch sử sẽ không bao giờ quên họ, và họ sẽ vĩnh viễn tồn tại với lịch sử, với thời gian, thậm chí vượt ra ngoài thời gian và không gian, ở chỗ họ sẽ bất diệt và bất tận như chính sự thật vậy.

Để có thể sống trong hiện tại một cách khôn ngoan, một cách chân thật như thế, ngoài tác động ý thức liên quan mật thiết tới hiện tại, con người còn cần phải có một ký ức sống động và một phán đoán chính xác nữa, một ký ức liên quan đến quá khứ và một phán đoán liên quan đến tương lai. Thật vậy, con người cần đến ký ức là yếu tố tâm lý liên quan đến quá khứ, vì thời gian chất chứa sự thật và tỏ hiện sự thật, nên tất cả những gì xẩy ra trong cuộc đời con người và cho cuộc đời con người đều mang con người đến gần sự thật hay đều tỏ cho con người biết sự thật về bản thân họ cũng như về ngoại cảnh chung quanh họ. Bởi thế, càng sống con người càng khôn ra là vậy, con người càng cảm thấy mình biết đời hơn và biết mình hơn, hành sử một cách hiệu quả hơn, không còn vụng về, dại dột, ngớ ngẫn, thất sách như trước nữa. Thế nhưng, nếu con người không biết rút kinh nghiệm và lưu trữ những cảm nhận cuộc đời, họ khó mà có thể tiến thân, có thể trưởng thành. Tưởng niệm là một yếu tố tối ư quan trọng của Do Thái Giáo cũng như của Kitô Giáo. Bởi vì, ơn cứu độ của họ không phải là một thực tại mơ hồ, mà là một biến cố lịch sử, một biến cố họ chẳng những cần phải tưởng nhớ mà còn phải liên tục long trọng cử hành nữa.

Thời Gian Sống Động trong Cuộc Đời

Biến cố lịch sử cứu độ của Do Thái Giáo là biến cố Vượt Qua, biến cố họ được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tổ phụ họ là Abramham, Isaac và Giacóp, Vị Thiên Chúa đã tự động lập Giao Ước với các vị cha ông của họ ấy và thực sự đã hoàn tất giao ước của Ngài với con cháu các vị, cụ thể nhất là việc Ngài chẳng những dùng nhân vật Moisen để giải thoát họ khỏi cảnh làm tôi cho dân Ai Cập 450 năm, mà còn dùng Gioduệ để đưa họ vào chính mảnh đất Ngài đã hứa với các vị là mảnh đất Palestine thấm đẫm huyết lệ nhất trên thế giới hiện nay. Đó là lý do Do Thái Giáo, từ biến cố lịch sử cứu độ vô tiền khoáng hậu đó tới nay, hằng năm, họ vẫn cử hành tuần lễ Vượt Qua để, trong khi tưởng nhớ đến Vị Thiên Chúa Cứu Độ của mình, họ ý thức ngay trong hiện tại những gì họ cần phải sống một cách xứng đáng với ơn cứu độ của họ.

Biến cố lịch sử cứu độ của Kitô Giáo cũng là Biến Cố Vượt Qua, một cuộc vượt qua đã được báo trước bằng chính cuộc vượt qua của dân Do Thái. Biến Cố Vượt Qua mà Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng long trọng cử hành vào mỗi Chúa Nhật hằng tuần trong năm, nhất là vào Tuần Thánh, với cao điểm là Lễ Phục Sinh, đó là biến cố vượt qua của Vị Sáng Lập họ tôn thờ, Đấng đã chịu chết trên cây thập giá, nhưng đã tự mình sống lại từ trong kẻ chết vào ngày thứ ba. Theo ý nghĩa vượt qua này, cũng như nhờ biến cố lịch sử vượt qua này của Vị Sáng Lập, Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội, chẳng những được cứu độ cho khỏi tội lỗi và sự chết, mà còn được sự sống và là một sự sống viên mãn, một sự sống thần linh, một sự sống hoàn toàn tự do siêu thoát, khiến họ có khả năng chế ngự sự dữ bằng sự lành, nhất là khả năng làm chứng cho chân lý, khả năng làm cho con người nhận biết chân lý và sống trong chân lý, một sự sống trường sinh bất diệt, một sự sống thần linh toàn hảo. Như thế, nếu biến cố Vượt Qua của Kitô Giáo, qua con người Kitô hữu, có thể làm cho nhân gian nhận biết sự thật và sống trong sự thật, một sự thật là nguồn gốc và là cốt lõi của văn hóa nhân bản đích thực, thì biến cố này không phải chỉ là biến cố lịch sử thuần túy đã hoàn toàn qua đi và cần phải tưởng niệm, mà còn là một biến cố hiện thực sống động nơi việc cử hành phụng vụ của cộng đồng Kitô hữu nữa.

Để có thể sống trong hiện tại một cách khôn ngoan, một cách chân thật, con người chẳng những cần phải có một ký ức sống động liên quan đến quá khứ mà còn phải có một phán đoán chính xác liên quan đến cả tương lai nữa. Đúng thế, cho dù ký ức có nhớ kỹ lưỡng và đầy đủ những gì xẩy ra trong quá khứ, nhưng nếu con người không biết lợi dụng những kinh nghiệm lợi hại, tốt xấu đã qua ấy để áp dụng vào môi trường và hiện cảnh cuộc sống của mình thì tương lai trước mắt họ vẫn chỉ là một ảo tưởng, hiện tại của họ vẫn là một cuộc dậm chân tại chỗ, thậm chí có những lúc trở thành một vũng lầy, càng nhúc nhích cựa quậy con người càng bị lún xuống sâu hơn, cho đến lúc không còn cứu được nữa. Nhận định này không đúng hay sao, bằng không tại sao con người càng văn minh lại càng lo âu sợ hãi chính mình, sợ hãi chính những gì mình làm ra, sợ hãi nhau, không tin tưởng nhau. Đến nỗi, kinh nghiệm của hai trận Thế Chiến I và II chưa đủ, con người hiện nay hình như sắp sửa cần đến một trận Thế Chiến III nữa mới được? Bởi thế, phán đoán của con người không thể chỉ căn cứ vào nguyên kinh nghiệm quá khứ để quyết định cho số phận của tương lai, bằng không, tương lai chỉ là lập lại quá khứ, như giòng nước chảy ngược. Vì không bài học nào giống bài học nào, lại còn vấn đề hoàn cảnh mỗi thời đại mỗi khác nữa, mà con người hiện tại cần phải hết sức sáng suốt, ở chỗ, họ làm sao để kinh nghiệm quá khứ có thể kết trái tương lai. Thế nhưng, nếu kinh nghiệm quá khứ, tự bản chất của nó, là cảm nghiệm của con người về sự thật, thì càng kinh nghiệm cuộc đời, con người càng gần gũi sự thật, càng thông suốt sự thật, càng thấu triệt sự thật mới đúng. Như thế, chỉ cần con người nhận biết sự thật, qua kinh nghiệm và nhờ kinh nghiệm quá khứ, cũng như qua những dấu chỉ và môi trường hiện tại, họ có thể an tâm tiến vào tương lai, dù chân trời tương lai mù mịt giông ba bão táp. Bởi vì, sự thật chẳng những là Thực Tại Thần Linh Tối Thượng mà con người phải đạt tới như cùng đích của mình, mà còn là ánh sáng soi đường dẫn lối cho con người thiện tâm bước đi và là sức mạnh thúc đẩy con người khao khát kiếm tìm chân thiện mỹ tiến bước về cõi trường sinh vĩnh hằng./.

URL: http://danchuausa.net/van-hoa/con-nguoi-da-kham-pha-ra-trong-thoi-gian-tat-ca-su-that-ve-thien-nhien-tao-vat-cung-nhu-ve-chinh-ban-than-minh/