Trích từ Dân Chúa

Thiên Chúa nói với con người theo lối nhân bản

Vũ Văn An

Hãng tin Zenit, ngày 6 tháng Năm, 2009, đưa tin: nhân hội nghị toàn thể của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh vào ngày 23 tháng Tư năm nay với chủ đề: “Linh Hứng và Chân Lý của Thánh Kinh”, Đức Giáo Hoàng đã đọc một bài diễn văn truớc hội nghị.

Đức Giáo Hoàng nhận định rằng chủ đề trên không những chỉ liên quan đến thần học, mà còn liên hệ đến chính Giáo Hội nữa vì sự sống và sứ mệnh của Giáo Hội tất yếu phải dựa vào lời của Thiên Chúa. Mà lời của Thiên Chúa chính là linh hồn của thần học và đồng thời là linh hứng của mọi cuộc sống Kitô giáo. Chủ đề này cũng được chính Đức Thánh Cha rất lưu tâm vì việc giải thích Thánh Kinh có tầm quan trọng chủ yếu đối với đức tin Kitô giáo và cho đời sống của Giáo Hội.

Từ Đức Lêô XIII tới Công Đồng Vatican II

Nhân dịp này, Đức Thánh Cha nhắc lại các đóng góp của Đức Lêô XIII với Thông Điệp "Providentissimus Deus", trong đó, ngài đem lại cho các nhà chú giải Công Giáo nhiều khích lệ và chỉ thị mới về chủ đề linh hứng, chân lý và khoa giải thích Thánh Kinh. Sau đó là Đức Piô XII với thông điệp thời danh "Divino Afflante Spiritu," trong đó, ngài thu thập và bổ túc nhiều điều trong giáo huấn có trước. Đức Piô XII cũng thúc giục các nhà chú giải Công Giáo tìm kiếm các giải đáp sao cho hoàn toàn nhất trí với học lý của Giáo Hội, bằng cách chú ý tới các đóng góp tích cực do các phương pháp giải thích mới vừa được khai triển lúc ấy.

Theo Đức Thánh Cha Bênêđíctô, sự thúc đẩy mạnh mẽ của hai vị giáo hoàng trên đối với việc học hỏi và nghiên cứu Thánh Kinh đã được Công Đồng Vatican II chính thức nhìn nhận và khai thác. Một cách đặc biệt, Hiến Chế "Dei Verbum" của Công Đồng vẫn còn soi sáng cho nhiều nhà chú giải Công Giáo ngày nay và vẫn còn đang mời gọi các mục tử và các tín hữu năng lui tới ‘ăn uống’ tại bàn tiệc lời Chúa thường xuyên hơn.

Về phương diện này, Công Đồng, trước hết, nhắc ta nhớ: Thiên Chúa chính là Tác Giả của Sách Thánh: “Những gì Thiên Chúa đã mạc khải Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, Giáo Hội Mẹ Thánh, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các thành phần đều là sách thánh và được ghi vào bản chính lục Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần nên tác giả của các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Giáo Hội với tình trạng như vậy. Nhưng để viết các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ viết những điều đó thôi.

Vì phải xem mọi lời các tác giả được linh ứng viết ra, tức các thánh sử, là những lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta. Bởi vậy "mọi sự trong Thánh Kinh được Thiên Chúa linh ứng có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện luận, sửa trị và rèn luyện trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện mọi việc lành" (số 11).

Các qui phạm cần thiết

Đức Thánh Cha sau đó nhấn mạnh tới một vài qui phạm cần thiết để trình bày chính xác linh hứng và chân lý của Thánh Kinh. Chính Hiến Chế "Dei Verbum", sau khi nói đến việc Thiên Chúa chính là tác giả của Thánh Kinh, đã cho biết ngay rằng Người nói với chúng ta theo cung cách con người. Cái tính hợp năng (synergy) nhân thần này hết sức quan trọng. Vì, muốn giải thích Thánh Kinh một cách chính xác, thì cần phải thận trọng tìm hiểu xem các tác giả thánh (hagiographers) thực sự muốn nói gì và điều gì làm Thiên Chúa hài lòng muốn phát biểu ra bằng ngôn ngữ nhân bản.

“Vì lời nói của Chúa diễn tả qua ngôn ngữ nhân loại, được đồng hóa với tiếng nói loài người, cũng như xưa Lời Nói của Chúa Cha Hằng Hữu đã trở nên giống loài người, sau khi nhận lấy sự yếu đuối của xác thịt” (Dei Verbum, số 13).

Đàng khác, theo Đức Thánh Cha, các chỉ dẫn trên, dù rất cần thiết đối với việc giải thích có tính lịch sử và văn bản, vốn là hai chiều kích đệ nhất đẳng của mọi khoa chú giải, nhưng chúng cần được nối kết với các tiền đề vốn có của giáo huấn về sự linh hứng và chân lý của Sách Thánh. Thực vậy, vì Sách Thánh là sách linh hứng, nên đã có một nguyên tắc tối thượng để giải thích nó một cách đúng đắn; nếu không có nguyên tắc này thì các trước tác thánh mãi mãi chỉ là các tử ngữ của quá khứ mà thôi; nguyên tắc đó là: Sách Thánh “phải được đọc và giải thích bằng cách luôn nhớ rằng tác giả của chúng là chính Thiên Chúa” (Đã dẫn, số 2).

Về phương diện này, Công Đồng Vatican II chỉ ra ba tiêu chuẩn cần được luôn luôn áp dụng vào việc giải thích Sách Thánh nếu muốn phù hợp với Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng cho nó.

Thứ nhất, chủ yếu cần phải hết sức chú ý tới nội dung và tính thống nhất của toàn bộ Sách Thánh: chỉ có trong tính thống nhất của nó, Thánh Kinh mới là Thánh Kinh mà thôi. Thực thế, dù các sách cấu thành nó có khác nhau bao nhiêu chăng nữa, Thánh Kinh vẫn chỉ là một, nhờ tính thống nhất của chương trình Thiên Chúa mà trung điểm và trung tâm chính là Chúa Giêsu Kitô (Xem Lc 24:25-27; Lc 24:44-46).

Thứ hai, Sách Thánh phải được giải thích trong ngữ cảnh truyền thống sống động của toàn thể Giáo Hội. Origen từng nói rằng: "Sacra Scriptura principalius est in corde Ecclesiae quam in materialibus instrumentis scripta", nghĩa là “Sách Thánh được ghi chép vào trái tim của Hội Thánh trước khi được ghi chép vào các dụng cụ vật chất”.

Thực vậy, trong Thánh Truyền, Giáo Hội mang theo ký ức sống động về Ngôi Lời Thiên Chúa và chính Chúa Thánh Thần đã ban cho Giáo Hội sự giải thích Lời ấy theo ý nghĩa thiêng liêng (xem Origin, Homilae in Leviticum, 5,5).

Thứ ba, cần phải để ý tới tính loại suy của đức tin nghĩa là tính nhất quán của từng chân lý cá thể đức tin với nhau và với kế hoạch tổng thể của Mạc Khải và tính viên mãn của nhiệm cục Thiên Chúa chứa trong đó.

Trách vụ của nhà nghiên cứu, biết tìm tòi Sách Thánh bằng nhiều phương pháp khác nhau, là phải đóng góp một cách phù hợp với các nguyên tắc trên vào việc hiểu biết và giải thích sâu sắc nhất ý nghĩa của Sách Thánh. Việc nghiên cứu các bản văn thánh theo phương pháp khoa học là điều quan trọng nhưng tự nó không đủ vì nó mới chỉ tôn trọng có chiều kích nhân bản mà thôi. Muốn tôn trọng tính gắn bó chặt chẽ của đức tin Công Giáo, nhà chú giải Thánh Kinh phải để ý nhận ra Lời Thiên Chúa trong các bản văn ấy nữa, bên trong chính đức tin của Giáo Hội.

Nếu thiếu điểm qui chiếu nhất thiết ấy, thì việc nghiên cứu của nhà chú giải sẽ không hoàn bị, vì đã đánh mất mục tiêu chính của việc nghiên cứu ấy, và liều mình tự rút gọn vào một giải thích hoàn toàn chiểu tự trong đó Tác Giả đích thực là Thiên Chúa không còn xuất hiện nữa.

Đàng khác, việc giải thích Sách Thánh không thể chỉ là một cố gắng khoa học cá thể mà luôn phải được so sánh với Thánh Truyền sống động của Giáo Hội, lồng vào trong Thánh Truyền ấy và được Thánh Truyền ấy chứng thực. Quy luật này giữ vai trò quyết định trong việc giải thích mối liên hệ đúng đắn giữa khoa chú giải và Huấn Quyền của Giáo Hội. Nhà chú giải Công Giáo không những cảm nhận mình thuộc về cộng đồng khoa học, nhưng trước hết còn thuộc cộng đồng tín hữu mọi thời nữa. Trên thực tế, những bản văn thánh kia không được ban cho từng nhà nghiên cứu cá thể hay cho cộng đồng khoa học, “để họ thoả mãn tính hiếu kỳ hay để cung cấp cho họ chất liệu nghiên cứu và tìm tòi” (Divino Afflante Spiritu, eb 566).

Các bản văn được Thiên Chúa linh hứng được ủy thác trước nhất cho cộng đồng tín hữu, cho Giáo Hội của Chúa Kitô, để nuôi dưỡng đời sống đức tin và hướng dẫn đời sống đức ái. Tôn trọng mục đích ấy chính là điều kiện cho tính hợp pháp và tính hữu hiệu của khoa giải thích Thánh Kinh. Thông điệp "Providentissimus Deus", khi nhắc lại chân lý nền tảng ấy, đã nhận định rằng: tôn trọng qui phạm này, thay vì làm trở ngại việc nghiên cứu Thánh Kinh, thực sự đã khuyến khích các tiến bộ chân chính. Đức Thánh Cha cho rằng: việc giải thích thuần lý dựa vào đức tin sẽ tương hợp gần gũi với thực tại của các bản văn này hơn là lối giải thích thuần lý bất cần biết tới Thiên Chúa.

Thực vậy, trung thành với Giáo Hội có nghĩa là hoà mình vào dòng chẩy của Thánh Truyền vĩ đại. Dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền, Thánh Truyền đã nhìn nhận các trước tác của quy điển là lời Thiên Chúa phán với Dân của Người, và Thánh Truyền ấy không bao giờ ngưng không suy niệm các trước tác ấy để khám phá ra kho tàng bất tận của chúng.

Công Đồng Vatican II tái xác quyết điều trên một cách rõ ràng: “Thực vậy, mọi điều liên hệ đến việc chú giải Thánh Kinh cuối cùng đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội được Thiên Chúa giao cho sứ mệnh và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa” (Dei Verbum, n. 12).

Như Hiến Chế Tín Lý nói trên đã nhắc nhở, giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền có cả một tính thống nhất không thể phân ly, vì cả hai đều phát nguyên từ cùng một nguồn gốc: “Bởi vậy Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết, phối hiệp mật thiết với nhau vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch là Thiên Chúa, có thể nói kết hợp làm một duy nhất và cùng hướng về một mục đích. Thực vậy, Thánh Kinh là lời Chúa nói, vì được ghi chép lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần; còn lời Chúa, mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các Tông Ðồ, thì Thánh Truyền lưu lại toàn vẹn cho những kẻ kế vị các ngài, để nhờ Thần Chân Lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực những điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình quý mến và kính trọng như nhau” (Dei Verbum, n. 9).

Như ta biết, thuật ngữ "pari pietatis affectu ac reverentia" (bằng một tâm tình qúy mến và kính trọng như nhau) đã được Thánh Basil tạo ra và sau đó được thích ứng vào Sắc Lệnh của Gratian, qua đó được truyền tới Công Đồng Trent, rồi Công Đồng Vatican II. Nó chính xác nói lên tính lồng kết vào nhau giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền.

Ngữ cảnh Giáo Hội giúp cho Sách Thánh được hiểu như là Lời đích thực của Thiên Chúa, một Lời tự làm mình trở thành chỉ dẫn, qui phạm và qui luật cho đời sống của Giáo Hội và sự lớn mạnh về đường thiêng liêng của tín hữu.

Như đã nói, điều trên không hề làm trở ngại cho việc giải thích nghiêm chỉnh và theo khoa học nhưng quả thực giúp người ta bước vào các chiều kích khác của Chúa Kitô, những chiều kích mà nếu chỉ dùng phân tích chiểu tự mà thôi, người ta sẽ không bao giờ bước vào được. Vì việc phân tích như thế tự mình mãi mãi không có khả năng nắm bắt được ý nghĩa toàn bộ từng hướng dẫn Thánh Truyền cùa toàn bộ Dân Thiên Chúa suốt trong các thế kỷ qua.

Để kết luận, Đức Thánh Cha mong ước các vị trong Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh kinh tìm tòi thêm nhiều cơ sở hơn nữa trong lãnh vực nghiên cứu Thánh Kinh. Ngài cho hay: trong một thế giới mà việc nghiên cứu khoa học càng ngày càng đảm nhiệm một tầm quan trọng lớn hơn ở nhiều lãnh vực, thì việc khoa chú giải đạt tới trình độ tốt hơn là điều không thể miễn chuẩn được. Nó là một trong các khía cạnh của việc hội nhập đức tin, vốn là một phần trong sứ mệnh của Giáo Hội, trong hòa điệu với việc chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể.

Vũ Văn An

URL: http://danchuausa.net/than-hoc-thanh-kinh/thien-chua-noi-voi-con-nguoi-theo-loi-nhan-ban/