Trích từ Dân Chúa

Thầy Cả hay Thầy Cúng, Thầy Pháp, Thầy Bùa?

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Ở Việt Nam trước đây- và chắc bây giờ vẫn còn- đã có những người làm những nghề gọi là nghề “thầy cúng” “Thầy pháp” và “thầy bùa”. Các thầy này chắc chắn không phải là “Thầy Chùa”, tức nhà tu hành theo Phật Giáo, chuyên tụng niệm, gõ mõ, cầu kinh trong các đình chùa của Phật Giáo. Thầy Chùa cũng có đến tư gia để tụng niệm trong dịp tang lễ của Phật tử nhưng không phải để lấy tiền công như các thầy cúng, thầy pháp, thầy bùa mà chủ yếu là để cầu siêu cho người quá cố mà thôi.

Thầy cúng, thầy pháp, thầy bùa, ngược lại, không phải là tu sĩ của tôn giáo nào. Nên các thầy này không có nhiệm vụ “giảng đạo hay dạy đạo” cho ai cả. Các Thầy này đều có gia đình, vợ con và làm nghề “cúng vái” hay “bùa phép” để kiếm sống như mọi ngành ngề khác trong xã hội. Nghĩa là khi ai có nhu cầu khấn xin một việc gì, hay trong dịp tang chế hoặc giỗ chạp hoặc tai biến nào đó, thì người ta mời Thầy cúng đến để cử hành việc cúng kiếng. Đặc biệt, những người mê tín, tin có “quỷ thần hay tà ma” ám hại, gây bệnh tật cho ai thì người ta đi mời thầy pháp, thầy bùa đến để chữa trị hay “giải tà”. Bằng chứng là trong cuốn tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh có kể việc bà Phán Lợi đã đem đứa cháu nội bị bệnh trao cho thầy pháp cứu chữa. Ông này dùng roi dâu để đánh đuổi “ma tà” ra khỏi đứa bé, khiến nó bị chết vì roi và nước thải thầy pháp cho uống, theo lời buộc tội của cô Loan, mẹ đứa bé. Đây là một tệ tục mê tín của nhiều người ở Việt Nam xưa kia và chắc còn tồn tại đến ngày nay ở nhiều nơi.

Trong Đạo Công Giáo của Chúa Kitô, Linh mục cũng được gọi là Thầy Cả, vì được chia sẻ Chức Linh Mục đời đời của Chúa Kitô, Thầy Cả Thượng Phẩm hay “Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:6). Linh mục– hay Thầy Cả- được chia sẻ một phần Chức Linh Mục này cùng với Giám Mục là người được chia sẻ trọn vẹn Chức Linh Mục đó của Chúa Kitô.

“Linh mục, mặc dủ không có quyền thượng tế và phải tùy thuộc Giám mục khi thi hành quyền bính, cũng hiệp nhất với Giám mục trong tước vị tư tế. Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, Thầy Cả Thượng Phẩm vỉnh viễn (x. Dt 5,1-10; 7,24; 9,11-28) để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước.” (Lumen Gentium, no. 28)

Đó là tất cả vai trò, chức năng và nhiệm vụ hay sứ vụ của Linh mục tức Thầy Cả theo tín lý và giáo lý của Giáo Hội.

Thi hành chức năng (competence) và Sứ vụ (Ministry) ấy, Thầy Cả phải hoàn toàn khác biệt “thầy cúng” “thầy pháp” và “thầy bùa” về mọi mặt thì mới xứng đáng là Alter Christus tức là Đức Kitô thứ hai qua Thánh Chức Linh Mục. Có như vậy thì Thầy Cả mới thực sự giúp cho nhiều người nhận biết và tin yêu Chúa Kitô mà mình là bí tích, là hình ảnh đích thực của Chúa trước mặt mọi người, đặc biệt là những tín hữu được trao phó cho mình coi sóc và phục vụ.

Thầy Cả chu toàn sứ vụ ấy qua các chức năng (competence) và nhiệm vụ sau đây:

I- Chức năng và Nhiệm vụ giảng dạy

Đây là nhiệm vụ rất cao trọng và quan trọng của Thầy Cả, Linh mục của Chúa Kitô trong Giáo Hội ngày nay. Mọi Thầy Cả đều có bổn phận và trách nhiệm phải giảng dạy đúng những giáo thuyết hay giáo lý của Chúa Kitô mà thôi. Không ai được phép dạy “giáo lý “ do mình bịa đặt ra. Thí dụ, Chúa Kitô đã dạy “ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu rỗi. Ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16). Chịu phép rửa là để được “tha tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân” theo giáo lý của Giáo Hội (x. SGLGHCG, số. 1263). Như thế có nghĩa là Giáo Hội tin có tội nguyên tổ (original sin) do Adam và Eva đã phạm và di hại đến toàn thể con người sinh ra trên trần thế này. Vậy, không Thầy Cả nào được phép đưa ra giáo lý riêng của mình để hoài nghi hay phủ nhận “Tội Tổ Tông” vì cho là trái với tinh thần khoa học, tâm lý và bất công khi “bắt cam chịu việc quýt làm”! Nếu tin và giảng theo “giáo lý riêng” của Thầy Cả này thì toàn bộ nền thần học của KitôGiáo về công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô sẽ xụp đổ hết, và cách riêng, bí tích rửa tội sẽ không có lý do tồn tại nữa, vì mục đích của Chúa Kitô khi xuống trần gian làm Con Người là để “hiến mạng sống của mình làm giá chuộc cho muôn dân” (Mt 20:28). Ngài đã hơn một lần nói đến sự cần thiết phải chịu phép rửa để được cứu rỗi (x, Ga 3, 5, Mc 16,16, Mt 28: 19). Vậy nếu không tin có sự “di truyền” của tội nguyên tổ thì cần gì phải rửa tội để được “tái sinh” trong sự sống mới hầu được cứu độ như Giáo Hội tin và dạy?

Mặt khác, Chúa Giêsu cũng không dạy và giáo lý của giáo Hội cũng chưa hề nói đến việc “rửa tội cho người chết qua trung gian của người sống”. Vậy mà một Thầy Cả kia đã quảng bá việc này công khai trên báo chí, gây hoang mang cho giáo dân.!

Nghiêm trọng hơn nữa là có Thầy Cả còn tin cả “thuyết luân hồi” (reincarnation) nữa và chính tôi đã được Thầy Cả này giảng sơ qua cho nghe về “thuyết này”! Dĩ nhiên tôi hoàn toàn không tin hay đồng ý với Thầy Cả này. Chưa hết, một Thầy Cả khác còn giảng một điều được coi là rối đạo (heretical) nhưng tôi không tiện nhắc lại ở đây.

Sau nữa, một Thầy Cả có năng lực học vấn và danh vọng cao đã viết báo nói rằng: Chức Linh Mục chung (common priesthood) của Phép Rửa là cao trọng hơn hết, không có bí tích đặc biệt nào khác có thể so sánh hay thay thế được! Nếu vậy thì Chúa Giêsu đã làm một việc không cần thiết là lập Chức Linh Mục Thừa tác (ministerial priesthood) và truyền cho các Tông Đồ “anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”(Lc 22:19; 1 Cor 11: 24-25). Nói khác đi, qua phép rửa, mọi tín hữu đều được “tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ.” (LG, số 31) nhưng Chức Linh Mục chung hay thông thường này của Phép Rửa không cho phép ai “làm việc này mà nhớ đến Thầy” tức là cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharist), trừ tư tế có chức linh mục thừa tác là Giám Mục và Linh Mục.

Trên đây là tiêu biểu một số sự kiện cho thấy có những Thầy Cả đã không giảng dạy đúng giáo thuyết của Chúa Kitô mà dạy giáo thuyết của riêng mình, gây hoang mang cho giáo dân chẳng may được giao phó cho các Thầy coi sóc, dạy dỗ.

II- Chức năng tế lễ và thánh hoá:

Với chức năng này, Thầy Cả nhân danh và thay mặt Chúa Kitô (in persona Christi) để dâng Hy tế hằng ngày trên bàn thờ. Đây phải là “nguồn mạch và chóp đỉnh” (summit) của đời sống Linh mục, của đời sống Kitô giáo cũng như của Giáo Hội (x. LG. Số 11) Nên các Thầy Cả đều được khuyên phải đầu tư trọn vẹn tâm trí vào việc này để tế lễ với tất cả tâm hồn và niềm tin của mình hầu sinh ích cho chính mình và cho tín hữu hiệp thông.

Cụ thể, khi cử hành Thánh Lễ và các bí tích, Thầy Cả không được cẩu thả, cốt làm cho xong việc đến nỗi giáo dân đã phải than phiền đại khái như: cha đó làm lễ và cho rước lễ như cái máy, chẳng có gì sốt sắng cả, nên ít người muốn tham dự lễ của cha. Hoặc cha kia không chịu soạn bài giảng, nên nói lung tung, lăng nhăng không ích gì cho người nghe. Cha nọ làm lễ cho nhanh, không giảng để còn kịp giờ đi “Sô” (đồng tế) ở chỗ khác để lấy phong bì!

Điều rất quan trọng phải nói ở đây là Thầy Cả không phải là thầy cúng, thầy bùa, thầy pháp, nên không thể làm những việc của các thầy này khi thi hành sứ vụ linh muc của mình (Priestly ministries).

Cụ thể, liên quan đến việc cầu nguyện chữa lành, Giáo Hội rất khuyến khích việc cầu xin ơn Chúa Thánh Thần vì không có ơn Chúa Thánh Linh thì Giáo Hội không thể lớn lên và thánh thiện hơn như bây giờ được. Giáo Hội chỉ có hai bí tích chữa lành chính danh là bí tích hoà giải và bí tích xức dầu bệnh nhân (Anointing of the sick) mà thôi.

Với bí tích hoà giải, hối nhân được chữa lành khỏi mọi thương tích do tội lỗi gây ra trong tâm hồn của họ. Nếu họ thành tâm sám hối chạy đến với Chúa Kitô trong bí tích này qua trung gian của một Thầy Cả, (dù bất xứng đến đâu theo tiêu chuẩn loài người) thì ai cũng được chữa lành khỏi mọi vết thương của tội lỗi và được an bình trở lại với Chúa và với tha nhân, một sự bình an mà không một quyền lực nào của con người hay tiền bạc có thể giúp mua được.

Với bí tích sức dầu bệnh nhân, Giáo Hội trước hết muốn nhắc lại cho tín hữu lòng thương sót của Chúa Kitô xưa kia khi Người đã chữa lành cho biết bao bệnh nhân mắc các chứng nan y như phong cùi, mù què, câm điếc, kể cả trừ qủi và cho kẻ chết sống lại. Nhưng Chúa đã không chữa hết mọi người đau ốm, đui mù ... Và chính Chúa cũng không né tránh những đau khổ trong tâm hồn và trên thân xác, để “qua cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá, Chúa Kitô đã mang lại cho đau khổ một ý nghĩa mới. Từ nay đau khổ có thể làm cho chúng ta nên đồng hình với Ngài, kết hiệp chúng ta với cuộc khổ nạn sinh ơn cứu chuộc của Ngài” (x. SGLGHCG. số 1505).

Nói khác đi, xưa Chúa Giêsu có chữa lành cho nhiều bệnh nhân, nhưng mục đích chính của Ngài không phải đến để tiêu diệt đau khổ, bệnh tật, sự dữ, mà ngược lại, Chúa đã  mang lấy các tật nguyền, bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17) và đã dùng đau khổ, sự khó để “xoá tội trần gian” (Ga 1:29) qua khổ nạn thập giá mà Ngài đã vui lòng chấp nhận để cứu cho con người khỏi chết và đau khổ đời đời. Do đó, dù không có gì là sai trái khi ta cầu xin Chúa cho khỏi bệnh tật, tai ương gặp phải trong cuộc sống này, nhưng phải sẵn lòng vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi tình huống. Thầy Cả phải là người hơn ai hết hiểu rõ ý nghĩa và giá trị cứu rỗi của đau khổ trong Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì thế không nên đặt nặng vấn đề “chữa lành” cho thân xác mà coi nhẹ nhu cầu chữa lành, băng bó những vết thương trong tâm hồn do hậu quả của tội lỗi gây nên. Chữa lành về mặt này thì kết quả có thể kiểm nghiệm ngay được. Kinh nghiệm cá nhân của mọi người cho thấy là, dù tội lỗi có nặng nề đến đâu nhưng nếu thành tâm thống hối chậy đến với Chúa qua bí tích hoà giải, thì ai cũng cảm nghiệm được ơn chữa lành, bình an và niềm vui khó tả sau khi lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa qua tay một Thầy Cả.

Bí tích sức dầu cũng vậy. Theo giáo lý thì “ân sủng đầu tiên của bí tích này là ơn an ủi, bình an và can đảm để thắng vượt những khó khăn của tình trạng bệnh nặng hoặc của sự suy yếu tuổi già. Ân sủng này là là một hồng ân của Chúa Thánh Thần giúp cho ta tin tưởng và tin kính Thiên Chúa, thêm sức mạnh để ta chống lại những cám dỗ về tuyệt vọng và âu lo trước cái chết. Sự trợ lực này của Chúa, nhờ sức mạnh của Thần Khí Ngài, sẽ đưa bệnh nhân tới chỗ được chữa lành về phần hồn, nhưng cũng có thể về phần xác nữa, nếu đó là thánh ý Thiên Chúa” (x. SGLGHCG, số 1520)

Thi hành các tác vụ trên, Thầy Cả phải hết sức nghiêm chỉnh cử hành các bí tích ấy theo đúng mục đích và phương pháp hay nghi thức (ritual) của Giáo Hội. Cụ thể, khi sức dầu bệnh nhân cho người đau yếu nhiều hay ít, Thầy Cả phải cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần xuống trên bệnh nhân, và sức dầu thánh (oil of the sick) trên trán và trên hai lòng bàn tay của bệnh nhân. Nghi thức cũng đòi hỏi Thầy Cả đặt tay- nhẹ trên đầu, hay giơ tay chung trên nhiều bệnh nhân có mặt để xin ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ. Chỉ có vậy thôi. Tuyệt đối không có nghi thức nào đòi hỏi phải lấy tay ấn mạnh vào trán của người ta đang đứng ngất ngư, xô cho họ ngã ra để mù quáng cho đó là ơn của Chúa Thánh Thần. Đây là phương pháp của “thầy bùa”, “thầy pháp” chứ không phải nghi thức chữa lành bệnh nhân của Giáo Hội mà Thầy Cả được cử hành nhân danh Chúa Kitô.

Vả lại, cầu xin ơn Thánh linh để được chữa lành về mặt nào?

Khi có tội, nhất là tội trọng (mortal sin) thì người ta mất hết sự bình an nội tâm, mất an hoà với Chúa và với tha nhân. Vậy muốn lấy lại sự bình an, hạnh phúc nội tâm này, thì chỉ có bí tích hoà giải mới giúp chữa lành nội tâm và tìm lại bình an với Chúa và với người khác mà thôi. Cầu xin ơn Thánh Linh không thôi chỉ giúp nhận biết thêm tình trạng “bệnh hoạn nội thương” của mình chứ không giúp chữa lành được. Thánh Linh sẽ thúc dục và hướng dẫn tìm đến lòng thương xót tha thứ của Chúa qua bí tích hoà giải để được thực sự chữa lành. Cầu nguyện để được té ngã, nói lảm nhảm, ú ớ không thể chữa lành được bất cứ thương tật nào do tội lỗi gây ra trong tâm hồn của ai. Chắc chắn như vậy.

Một lần nữa, tôi qủa quyết việc một vài linh mục ở Mỹ và Canada đang đi rao món hàng “Thánh Linh chữa lành” để gây những cảm súc giả tạo (té ngã, nói lảm nhảm, không ai hiểu gì) cho một số tham dự viên, không phải là nghi thức sức dầu chữa lành của Giáo Hội Công Giáo. Đúng hơn, đây là “nghi thức” của các “thầy bùa, thầy pháp” mượn danh Chúa Thánh Thần để làm trò ảo thuật, mê hoặc giáo dân dễ tin mà thôi. Thầy Cả chân chính thi hành sứ vụ chữa lành của Chúa Kitô qua bí tích hoà giải và sức dầu bệnh nhân không thể là thầy bùa, thầy pháp như vậy được. Tôi thách đố những thầy này trưng ra được căn bản kinh thánh, tín lý, giáo lý,thần học nào của Giáo Hội chứng minh Chúa Thánh Linh là nguyên nhân gây ra những hiện tượng “ té ngã, nói lâm râm, lảm nhảm” không ai hiểu được kể cả “thầy pháp” chủ sự nghi thức này. Nếu nói “tiếng lạ” mà không ai hiểu được, kể cả người nói, thì ích lợi gì cho ai và cho chính bản thân người “được ơn ấy”???

Đây là thực tế người ta phải nhìn vào để tự đánh giá công dụng hay lợi ích thiêng liêng của hiện tượng té ngã và “nói tiếng lạ”. Chúa Thánh Thần không bao giờ làm một việc phi lý, vô bổ, vô ích. Ngài là Đấng an ủi dịu dàng, là Thầy dạy khôn ngoan là Thần Chân Lý, là Ánh Sáng soi hết cõi lòng nguời ta, nên đến với ai thì Ngài ban ơn soi sáng, an ủi và sức mạnh thiêng liêng để dẫn đưa con cái vào đường thật nẻo chính chứ không bao giờ lại chỉ làm “trò ảo thuật” nơi một số người tham dự và gây hoang mang, nản lòng cho những ai không được “ơn té ngã, nói lảm nhảm không ai hiểu gì”.

Một điều trớ trêu, là giữa các “thầy bùa” này cũng mâu thuẫn, không nhất trí với nhau về phương pháp “chữa lành” của họ. Thầy bên Canada chống các thầy bên Mỹ về cùng phương pháp và mục đích “Thánh Linh chữa lành”. Tại sao vậy? Nếu quả đó là công việc của Chúa Thánh Thần mà các Thầy đó được đặc ân, đặc sủng thi hành thì phương pháp và kết quả phải như nhau mới đúng chứ? Vậy tại sao các thầy lại chống nhau, làm như thể chỉ có mình mới là “Thánh Linh thứ thiệt”, còn người khác là “giả hiệu, bịp bợm, sai trái”! giáo dân biết theo phe nào đây?

III- Chức năng phục vụ và làm gương sáng:

Mọi Thầy Cả đều phải noi gương Chúa Kitô, Thầy Cả Chí Thánh, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến đang mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28).

Sự thật thì đại đa số Thầy Cả đã và đang âm thầm chu toàn rất tốt đẹp sứ vụ này và nêu gương sáng cho người khác. Tuy nhiên, thành ngữ ViệtNam có câu: “một con sâu làm rầu nồi canh” nên chỉ cần một số nhỏ các Thầy không phục vụ đúng với tinh thần nói trên của Thầy Cả Thượng Tế Kitô mà phục vụ với cung cách và tinh thần của các thầy cúng, thầy bùa, thầy pháp, nên đã gây phương hại cho sứ vụ chung của hàng giáo sĩ. Đó mới là điều bất đắc dĩ phải nói ra đây một lần cho xong.

Liên quan đến việc tế lễ và cử hành các bí tích, mặc dù giáo luật số 945, triệt 1 cho phép linh mục được hưởng bổng lễ (mass stipends) theo mức qui định của Giáo quyền địa phương, nhưng cấm linh mục không được đòi người xin lễ số tiền cao hơn mức giáo quyền địa phương đả ấn định (giáo luật số 952, triệt 1). Nhưng thực tế thì nhiều Thầy Cả cứ lặng lẽ lấy bổng lễ cao hơn mức qui định và còn ngang nhiên từ chối dâng lễ khi thấy số tiền dâng cúng quá ít! Bên ViệtNam đã có Thầy Cả từ chối nhận lễ có 5 đô la bổng lễ! (chứng từ của một Thầy từ Mỹ về thăm VN) Đặc biệt, Có rất nhiều Thầy đã gom cả 20, 30 ý lễ nhận được trong một thánh lễ cuối tuẫn nhưng không hề nói cho giáo dân biết là mình chỉ được hưởng một bổng lễ mà thôi. Nếu muốn hưởng hết thì phải làm bù lại trong tuần cho đủ ý lễ người ta xin (giáo luật số 948) Nhưng một tuần chỉ có 7 ngày thì làm sao Thầy làm hết, 20, 30 lễ kia, để hưởng trọn số bổng lễ? vậy các Thầy giải quyết số lễ thặng dư này như thế nào cho hợp với giáo luật số 1385 nói rõ: “Ai trục lợi bất hợp phảp trên các bổng lễ sẽ bị phạt vạ hay hình phạt xứng đáng khác”. Ấy là chưa kể có những Thầy đã “bịp” giáo dân về cái gọi là “lễ đời đời” để lấy 10,000 hay 20,000 dollars của những người không am hiểu giáo lý, tín lý về mục đích xin lễ cầu cho kẻ chết. Thầy cúng thì mới hành nghề vì tiền. Đưa nhiều tiền thì thầy tụng niệm lâu, đưa ít thì cúng vái ít. Không tiền thì không thể mời thầy cúng đến cúng vài gì được.Thầy pháp và thầy bùa cũng vậy. Giá tiền của mỗi dịch vụ họ làm đều khác nhau tùy từng trường hợp “giải bùa, trừ ma tà, hay yểm huyệt v.v.”

Thầy Cả của Chúa Kitô tuyệt đối không phải là các thầy nói trên. Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín lý LumenGentium, đã dạy các Thầy Cả (Linh mục) như sau: “Linh Mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn.(x.1 Cor 4,15 và 1 P1, 23) (LG. số 28)

Phải săn sóc các tín hữu như những người cha trước hết không có nghĩa là “làm cha” họ để được trọng vọng, ăn sung mặc sướng, mà “làm cha” để hết lòng phục vụ cho lợi ích thiêng liêng của họ để giúp họ nhận ra Chúa Kitô qua cung cách và tâm tình phục vụ của mình. Thầy Cả là người gần gũi giáo dân nhất trong mọi sứ vụ tế lễ, thánh hoá, giảng dạy và phục vụ. Thầy chính là miệng, là tai mắt, và chân tay trước hết của Giám Mục mình trực thuộc và trên hết là của Chúa Kitô, Đấng đã gọi và sai đi làm tông đồ.

Vì thế, Thầy Cả sẽ đem được nhiều người về với Chúa hay sẽ đẩy nhiều người ra xa Chúa, ra khỏi Giáo Hội chỉ vì cung cách và tâm tình phục vụ giáo dân của các Thầy ở các giáo xứ, cộng đoàn địa phương. Cụ thể, Thầy Cả mà tham tiền, phục vụ vì tiền thì thì không hơn gì thầy cúng, thầy pháp, thầy bùa. Đây một chuyện có thật điển hình: một đôi hôn phối đến xin kết hôn trong giáo xứ kia. Thầy Cả chánh xứ đòi hỏi phải có đủ giấy tờ cần thiết như giấy chứng rửa tội, thêm sức, rước lễ lần đầu, và học giáo lý hôn phối, sổ gia đình chứng minh thuộc về giáo xứ. Nộp đủ các giấy tờ này rồi mà Thầy Cả vẫn chưa chịu vì còn thiếu “giấy chứng giáo lý cơ bản”??? Đôi trẻ đến hỏi ý kiến một người lớn tuổi trong xứ. Ông này nói ngay: đúng rồi, cậu còn thiếu cái “giấy xanh” nữa nên cha không nhận! Đôi trẻ ngơ ngác không hiểu. Ông cụ bèn nói ngay: cậu bỏ 200 đô vào phong bì xanh rồi đem nạp cho thư ký của cha là xong. Quả nhiên, sau đó cha không đòi thêm giấy gì nữa! Một Thầy Cả kia còn rắc rối, làm khó giáo dân cách phi lý như sau: khi chứng hôn phối cho cặp vợ chồng này thì Thầy miễn cho giấy rửa tội của chú rể vì lý do rửa tội bên ViệtNam mà nay không xin được giấy chứng. Thầy chỉ đòi cha mẹ cậu này làm giấy cam đoan con mình đả rửa tội ở VN rồi mà thôi. Nay chúng có đứa con đầu lòng mang đến xin rửa tội. Thầy lại đòi Giấy rửa tội của cha mẹ thì mới rửa tội cho con! Thế là đứa trẻ không được rửa tội! Chưa hết, một vài Thầy chánh xứ khác, khi có người chết, gia đình gọi đến Văn Phòng Giáo Xứ thì thư ký của các Thầy hỏi: có ghi tên nhập xứ không, phong bì đóng góp số mấy. Vì không có nên cha từ chối không làm lễ an táng!

Thử hỏi: Những cung cách điển hình trên đây của một số Thầy Cả có giúp giáo dân thêm yêu mến Giáo Hội hay sẽ chán ghét vì giáo sĩ không thiết tha phục vụ đúng thiên chức mà chỉ làm “nghề Thầy Cả” như nghề thày cúng, thầy pháp? Có thể nói một cách không sai lầm là chính các Thầy Cả mới là những nhân chứng hùng hồn nhất cho Chúa Kitô trước mặt người đời nói chung và trước mặt giáo dân nói riêng. Cho nên, Đạo Thánh của Chúa sẽ chỉ được người ta đón nhận, tin và sống nếu các Tông Đồ lớn nhỏ của Chúa là những hình ảnh đích thực của Chúa Kitô “Người vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có” (2 Cor 8,9).

Tông Đồ mà thích tiền, tham tiền thì sẽ bất cần danh dự, thể diện để đi tìm tiền triền miên bằng mọi phương tiện, kẻ cả làm giấy tờ giả mạo, mượn danh cô nhi khuyết tật hoặc giúp linh mục hưu dưỡng, nhưng tiền thu được mang về bao nhiêu và làm gì không ai biết! Ham tiền sẽ đưa đến làm tay sai cho thế quyền để trục lợi, tranh giành những chức vụ béo bở, lơ là nhiệm vụ mục tử, làm mất niềm tin của tín hữu, và vô hiệu hoá sứ mạng phúc âm hoá thế giới của Giáo Hội.

Đó là sự thật đau lòng phải nói ra vì mục đích xây dựng Giáo Hội, cách riêng vì uy tin và sứ vụ của hàng giáo sĩ đang đấn thân phục vụ cho dân Chúa ở khắp nơi, chứ không vì đố kỵ ghen ghét hay tự tôn để chỉ trích cá nhân ai hoặc “vạch áo cho người xem lưng”. Ước mong độc giả bốn phương khoan dung đón nhận và không hiểu lầm thiện chí của người viết.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

URL: http://danchuausa.net/song-dao/thay-ca-hay-thay-cung-thay-phap-thay-bua/