Trích từ Dân Chúa

Giáo dân có bổn phận và trách nhiệm gì trong Giáo Hội? (2)

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

c- Địa Vị Vương Giả Hay Sứ Vụ Vương Đế Của Giáo Dân

Bí Tích Rửa Tội không những cho người tín hữu được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ, tư tế và còn cả địa vị vương đế của Chúa Kitô nữa.

Thật vậy, Chúa Giêsu đến để cứu chuộc và dẩn đưa nhân loại vào Nước Thiên Chúa là Vương Quốc của bình an, thánh thiên, công bình, yêu thương và tha thứ. Do đó, mọi tín hữu, qua Phép Rửa, đều được mời gọi và có bổn phận hoạt động tích cực để mở mang Nước Thiên Chúa ở khắp nơi trên trần thế này.

Nghĩa là phải tích cực hoạt động để đẩy lui bóng tối của sự dữ, sự tội bằng ánh sáng Chúa Kitô. Với tinh thần làm men, làm muối và ánh sáng, người giáo dân, khi tham gia sinh hoạt và làm việc với người khác, phải cố gắng nêu cao những giá trị và đặc tính của Nước Thiên Chúa trước những thách đố của thời đại, của xã hội hưởng thụ vật chất, của “văn hoá sự chết” nhằm chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền bạc và vui thú bất chính, dửng dưng trứớc sự đau khổ, nghèo đói của đồng loại, đánh mất mọi ý thức đúng đắn về tội lỗi và tội ác (sins & crimes).

Tóm lại, họ phải có can đảm chống lại những nếp sống vô luân, những bất công xã hội, những vi phạm quyền sống của con người, những guơng xấu xô đẩy ngườì lớn và thanh thiếu niên vào con đường trụy lạc, làm băng hoại gia đình và xã hội từ gốc dễ. Trong một thế giới gian tà và tội ác, sống xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu là sống xứng đáng với địa vị vương giả của mình, tức là góp sức đem Nước Thiên Chúa đến những nơi có bất công, tranh chấp, hận thù, gian ác, và nhơ uế.

Với địa vị vương giả, người tín hữu được mời gọi và có bổn phận mở mang Vương Quốc của Chúa Kitô Vua trên trần thế này trong mọi môi trường sống và hoạt động, vì “Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở mang nước Người, nước của chân lý và sự sống, cuả ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hoà bình.” (LG. n,36)

d- Tương Quan Với Hàng Giáo Phẩm:

Trước hết, cần biết qua tại sao phải gọi các Giám mục, linh mục là “cha”. Giáo Hội cho phép dùng danh xưng này vì lời Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô như sau: “Trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1 Cr 4:15). Nghĩa làdo tác vụ Giáo hội trao, Giám mục, linh mục sinh con cách thiêng liêng cho Chúa Kitô qua việc rao giảng Tin mừng và làm phép Rửa. Đây là vai trò ngươì cha thiêng liêng (spiritual fatherhood) của hàng giáo sĩ. Đó chính là lý do tại sao Thánh Phaolô gọi Timôthê là “người con tôi đã sinh ra trong đức tin” (1Tím 1:2).

Thánh Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, cũng dạỵ “Các linh mục phải săn sóc các tín hữu như những ngươì cha trong Chúa Kitô vì đã sinh họ cách thiêng liêng qua phép Rửa và giáo huấn” (cf. LG. n.28). Đây là tình thiêng liêng giữa giáo sĩ (Giám mục, Linh mục) và giáo dân trong đức tin, không có liên quan gì đến văn hoá của một dân tộc nào và tuyệt nhiên không phải là hình thức “thần thánh hoá giáo sĩ” hay xúc phạm (blasphemy) đến Thiên Chuá là CHA trên trời như có ngươì lầm tưởng và muốn thay đổi. Lời Chúa trong câu Phúc Âm Mat 23:8-9 chỉ có nghĩa là không được dành cho ai dưới đất sự tôn thờ, tôn kính duy nhất (Latria) được dành riêng cho Thiên Chúa là CHA, Đấng tạo dựng mọi loài, mọi vật vô hình và hữu hình, chứ không áp dụng cho những ngươì thay mặt Chúa để tác tạo con người về mặt thể lý và thiêng liêng như các bậc làm cha mẹ trong gia đình và trong Giáo Hội.

Trong tương quan với Hàng giáo Phẩm và để thi hành bổn phận góp sức xây dựng, bảo vệ và phát triển Giáo Hội từ trung ương đến điạ phương, người giáo dân cần lưu ý lời dạy sau đây cuả giáo Hội: “... như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ (giáodân) cũng sẽ trình bày với các vị ấy (hàng giáo phẩm) những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ cuả mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội. Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy, nhưng luôn luôn vơí lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những ngươì thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài” (cf. LG. IV, n.37).

Mọi người trong giáo Hội phải hiểu rõ là Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ không phải là một cơ chế chính trị, xã hội hay văn hoá mà là một Bí Tích Cưú Độ, có mặt và hoạt động trong trần gian vơí sứ mạng hoàn toàn siêu nhiên, dù có phương tiện nhân sự là Hàng giáo Phẩm, giáo sĩ, phương tiện vật chất là các cơ sở thờ phượng, giáo dục, bác ái ở khắp nơi trên thế giơí cũng như cần đến nhiều khoản tài chánh để chi phí cho những nhu cầu cần thiết. Vì không phải là một cơ chế chính trị hay xã hội nên không thể áp dụng bất cứ đường lối, phương thức nào cuả các đoàn thể chính trị, xã hội vào các sinh hoạt của giáo Hội. Mọi sinh hoạt trong Giáo Hội được chỉ đạo bằng tinh thần vâng phục các Đấng Bề Trên thay mặt và nhân danh Chuá Kitô (in persona christi), dưới sự hướng dẫn, soi sáng, nâng đỡ cuả Chúa Thánh Thần.

Cụ thể, các giám mục hiệp thông và vâng phục Đức Thánh Cha, ngươì kế vị Thánh Phêrô trong sứ mạng “chăn dắt chiên con, chiên mẹ cuả Thầy”, các linh mục hiệp thông, vâng phục và cộng tác vơí các giám mục để thi hành thưà tác vụ (ministry) được trao phó. Phó tế phụ giúp cho linh mục và giám mục. Tu sĩ nam nữ vâng phục các Bề trên liên hệ cuả mình, giáo dân vâng phục hàng giáo phẩm theo lời dạy sau đây của Thánh Công Đồng Vaticnô II: “Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lơì cuả ngươì Kitô hưũ, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đaị diện Chuá Kitô đã quyết định vơí tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đaọ trong Giáo Hội. Làm thế, họ đã theo gương Chuá Kitô, Đấng đã vâng lơì cho đến chết để mở đường hạnh phúc cuả sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng các vị lãnh đạo của mình cho Thiên Chúa, để các ngài hoan hỉ mà không than phiền thi hành nhiệm vụ chăm sóc chúng ta như những ngươì sẽ phải trả lẽ” (x. Dth 13,17) (LG. IV, n.37).

Vâng phục theo tinh thần trên không có nghiã giáo dân không được quyền phát biểu đóng góp điều gì cho Giáo Hội, và chỉ biết cúi đâù vâng nghe. Nhưng truớc khi nói đến phạm vi và giơí hạn của quyền phát biểu đó, thì cần nhấn mạnh điều quan trọng này:

Trong giáo Hội Công Giáo, mọi tín hữu phải vâng phục Quyền Giáo Huấn (Magisterium) cuả Giáo Hội. Không có vấn đề dân chủ để cho phép một thành phần nào trong giáo Hôi được quyền thách đố (challenge), đặt vấn đề hay bác bỏ điều gì được dạy dỗ bởi Quyền này, đặc biệt trong hai lãnh vực tín lý (dogma) và luân lý (morals) vì Đức giáo Hoàng và các giám mục hiệp thông với ngài được ơn bất khả ngộ (không thể sai lầm = infallibility) cuả Chuá Thánh Thần khi dạy dỗ tín hưũ đặc biệt trong hai lãnh vực này.

Vậy khi các linh mục và giám mục hiệp thông với Đức Thánh Cha để giảng dạy những gì về đức tin, về giáo lý, luân lý, Kinh Thánh, phụng vụ thì các tín hưũ phải vâng phục thi hành. Không có vấn đề không đồng ý kiến (disagreement) ở đây. Cũng không ai đuợc phép từ chôí tuân theo hay phê bình những gì liên quan đến kỷ Luật bí tích, Thư qui (canon) Kinh Thánh, giáo luật (canon law), phụng vụ thánh (sacred liturgy). Không thể đòi chia sẻ quyền giảng dạy chân lý cuả Giáo Hội để đưa ra những lý thuyết, những tư tưởng canh tân không phù hợp vơí Giáo lý cuả Giáo Hội.

Cụ thể không thể lâý cớ góp ý xây dựng giáo Hội bằng những lý thuyết về tâm sinh lý và y học để đòi cho phép phá thai (abortion), ly dị (divorce) và hôn nhân đồng tính (same sex marriage). Không thể bất đồng với giáo Hội về luật độc thân (celibacy) của hàng giáo sĩ, hay đòi cho nữ giơí được làm Linh mục. Cũng không thể đối đầu vơí Quyền giáo Huấn của giáo Hội bằng phương thức diễn đàn để phê bình hay đề nghị những cải đổi liên quan đến tín lý, giáo lý, luân lý, Kinh Thánh, Bí tích...

Thí dụ, không thể viện lý do hội nhập văn hoá (inculturation) để đòi đem các bài đọc về văn hoá, đạo đức của dân tộc như sách Gia Huấn Ca, ca dao, tục ngữ để thay thế hay đọc xen kẽ vơí các bài Sách Thánh đang được đọc trong các Thánh Lễ. Cũng không thể lấy lý do “hội nhập văn hoá” để xin cho dùng bánh tráng và rượu đế “thay cho rượu nho và bánh bột mì không men (unleavened bread)” được dùng thống nhất trong phụng vụ của Giáo Hội Công giáo. “Đem Chuá Kitô về với các dân tộc Á Châu” không có nghiã là phải Việt Nam hoá hết mọi hình thức phụng tự, nghi lễ kể cả nội dung tín lý, giáo lý đang áp dụng chung cho mọi dân tộc, mọi văn hoá thế giới. Điều quan trọng cần duy trì là cốt lõi niềm tin chứ không phải hình thức biểu lộ.

Cũng trong tinh thần này, không nên phê bình rồi đề nghị dùng cụm từ “gia nhập giai cấp linh mục, hay giám mục” dưạ theo nguyên ngữ của các từ “ordo và ordinatio” để thay thế cho danh xưng “Chịu Chức linh mục hoặc Giám mục” đã được dùng từ lâu trong phụng vụ và nghi thức cuả giáo Hội, vì nói như vậy là chối bỏ “Chức thánh = Holy Orders” cuả hàng giáo sĩ theo giáo lý và tín lý cuả Giáo Hội. Nên biết rằng từ ngữ đuợc dùng trong phụng vụ hay bí tích là phải được hiểu theo ý của Giáo Hội chứ không phải theo hiểu biết và cắt nghiã cuả các nhà ngữ học (linguists).

Vẫn biết, qua Bí tích Rưả tội, mọi tín hữu đều được tham dự vào chức linh mục cuả Chuá Kitô là Tư tế (Priest), Ngôn sứ (Prophet) và Quân vương (King), nhưng Giáo Hội phân biệt rõ thể thức tham dự này cuả ngươì giáo dân và cuả hàng giáo sĩ thừa tác (ordained ministers) như đã được trình bầy ở phần trên của bài.

Tôi phải đặc biệt nhắc lại điều này vì có ngươì hiểu lầm rằng từ La ngữ Ordo mà giáo Hội dùng để chỉ chức thánh của hàng giáo sĩ Công giáo chỉ có nghiã là “bậc, là giới, là giai cấp” và từ “ordinatio” chỉ có nghiã là “gia nhập hay xát nhập vào “ordo” đó, cho nên theo nguyên ngữ (original meaning) thì không có gì là “chức thánh” hay “chiụ chức” cũng như từ ngữ “Sacramentum” thì cũng chẳng có gì là “bí tích” cả, nhưng vì người ta dịch như vậy nên trở thành quen thôi. Lập luận này hoàn toàn sai giáo lý của giáo Hội vì Giáo Hội không căn cứ vào từ ngữ mà chỉ dùng từ ngữ để chuyên chở niềm xác tín cuả mình vào một thực thể thiêng liêng không thể chứng minh và cắt nghiã được bằng ngôn ngữ hay lý luận cuả con người.

Thực thể đó là Ơn thánh (gratia) và Quyền thánh (sacra potestas) mà Giáo Hội tin là được Chuá ban cho các thưà tác viên có chức thánh (ordained ministers) qua việc đặt tay cuả Giám mục và lời nguyện xin ơn Chuá Thánh Thần trong Nghi thức truyền chức phó tế, linh mục hay giám mục cuả giáo Hội. Đây là một nghi lễ phụng vụ thiêng liêng đòi hỏi đức tin để chấp nhận chứ không phải là một hình thức lễ nghi cuả xã hội loài người như lễ mãn khoá, lễ nhậm chức, lễ ra nhập một đoàn thể hay đảng phái chính trị v.v. Nếu hiểu như vậy thì chẳng còn gì là thánh thiêng (sacred) trong các nghi thức phụng vụ cuả Giáo Hội nữa và tất cả chỉ còn là “bùa phép” (magic) mê tín giả tạo núp dưới những từ ngữ dịch sai như ordo, ordinatio, sacramentum v.v. mà thôi!

Đây là một nguy cơ của việc sử dụng sai vai trò ngôn sứ trong giáo Hội và tự hào am hiểu La ngữ để sửa sai Giáo Hội về những thuật ngữ được dùng trong phụng vụ thánh, trong các Bí tích (sacraments) và Sách giáo lý cuả giáo Hội.

Đành rằng Việt ngữ không có đủ khả năng tương đương để dịch từ La ngữ hay các ngôn ngữ tây phương khác, nhưng khi dịch Ordo là Chức Thánh, Ordinatio là Truyền chức hay chịu Chức thánh, Sacramentum là Bí Tích thì cách dịch này là đúng với ý cuả giáo Hội về nội dung mớí cuả các từ ngữ ấy, mặc dù nguyên ngữ không hẳn có đủ nghiã đó. Cũng chính vì chỉ hiểu các từ La tinh theo nguyên ngữ nên có ý kiến cho rằng: vì Ordo có nghiã là “bậc, là hàng, là giai cấp” nên nếu nói Phó tế, Linh mục, Giám mục có Chức thánh thì các “bậc độc thân, bậc goá bụa, cô trinh nữ” cũng đều có chức thánh cả vì cùng là ordo như nhau và “do một nghi thức trong Giáo luật mà tác thành”!

Điều này hoàn toàn không đúng vì trước hết qua Phép Rưả, tuy giáo dân và hàng giáo sĩ cùng chia sẻ chức Linh Mục duy nhất cuả Chuá Kitô nhưng khác nhau về “cấp độ và yếu tính (degree and essence)” như đã phân tích ở phần trên. Và như Thánh Công Đồng Vaticanô II định nghiã, danh từ “giáo dân = laity” có nghiã là “tất cả những Kitô hữu không có chức thánh hoặc bậc tu trì được Giáo Hội công nhận” (LG. n. 31).

Như vậy chỉ có những ngươì được chọn để lảnh chức Phó Tế, Linh Mục và Giám mục mới có Chức Thánh (Holy Orders) mà thôi. Đây không phải là sự tranh giành hay độc quyền v ề “Chức Thánh” mà chỉ là sự phân biệt về cách thức tham dự vào Chức Linh Mục của Chúa Giêsu theo giáo lý cuả Giáo Hội. (cf. SGLCG. nn 1536,1551)

Nói cách khác, khi nêu ra những điều này tôi không có ý chỉ trích các tác giả có tư tưởng không đúng về Bí tích, mà chỉ muốn nhân đây trình bày cho rõ những gì giáo Hội dạy về tín lý, giáo lý, phụng vụ, bí tích và Nghi thức (Rites) mà thôi.

Vậy Giáo Dân Có Thể Đóng Góp Gì Để Xây Dựng Giáo Hội Ngoài Những Điều Nên Tránh Trên Đây?

Ta hãy đọc lại lời dạy của Thánh Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium về việc này: “Họ (giáo dân) cũng sẽ trình bày với các vị ấy (Hàng giáo phẩm) những nhu cầu và khát vọng cuả mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ khả năng chuyên môn và uy tín cuả họ,họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ cuả mình về những việc liên quan đến lơị ích cuả Giáo Hội... nhưng luôn vơí lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh cuả các ngài” (Ibid. n.37).

Như vậy, khi phải bày tỏ điều gì vơí hàng Giáo phẩm, giáo dân nên làm vơí lòng thực tâm yêu mến Giáo Hội và chỉ vì thiện chí muốn xây dựng cho Giáo Hội ngày một thêm trở nên giống Chuá Kitô là Đầu cuả Thân thể Nhiệm mầu là chính Giáo Hội mà mọi tín hưũ là những chi thể lớn nhỏ.

Cụ thể, giáo dân có thể và còn có bổn phận trình bày cho các vị lảnh đạo Giáo hội địa phương những thao thức về mục vụ, những khao khát được học hỏi về Kinh Thánh, tín lý, giáo lý,luân lý và phụng vụ để biết sống và hành Đạo cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn trong hoàn cảnh thế giới ngày nay.

Cũng trong mục đích ấy, giáo dân có quyền nêu ra những thắc mắc cuả mình trong các lãnh vực này hầu mong được hiểu rõ và hiểu đúng để thực hành trong đời sống. Ngoài ra, giáo dân cũng có thể góp ý hoặc đề nghị những phương pháp sư phạm giúp giảng daỵ giáo lý cách hiệu quả và cập nhật hơn cũng như góp ý về việc kiến thiết, xây dựng Giáo Xứ kể cả phương thức gây qũy (fundraising) để giúp tài trợ những nhu cầu cần thiết. Nhưng cần phân biệt rõ là góp ý xây dựng (suggest constructively) thì khác vơí chỉ trích (criticize) và tạo gương xâú (scandal) có hại cho uy tín cuả Giáo hội. Khi muốn sửa sai điều gì liên quan đến cá nhân, tập thể thì chúng ta cần nhớ laị lời Chuá sau đây về cách sưả lỗi anh em (fraternal correction):

“Nếu người anh em cuả anh trót phạm tôi, thì anh hãy đi sưả lỗi nó, một mình anh vơí nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình.Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai ngươì nưã để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lơì hai hay ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại hay một kẻ thu thuế” (Mt 18:15-18)

Như vậy, khi thấy có sự sai trái nào trong Giáo Hội, trong cách hành xử của một hay nhiều giáo sĩ, hoặc tai tiếng về đơì tư của ai, mà đã vội rỉ tai loan truyền cho người khác biết rôì viết thư nặc danh, viết báo, lên internet công khai đả kích hay nói xiên xéo, bóng gió về sự sai trái đó cho công chúng biết thì có phù hớp vơí lơì Chuá trên đây không?

Chúng ta nên hiểu rằng Giáo Hội của Chúa trên trần gian này không phải đã là nơi qui tụ toàn các Thánh nam, nữ, tức những ngươì không còn tì vết nào đáng chê trách nưã. Trái lại, phải thành thật nhìn nhận rằng Giáo Hội chỉ là nơi mời gọi những ngươì tội lỗi muốn được cưú rỗi, muốn nên Thánh, nhưng còn đang trên tiến trình hoàn thiện và chưa đạt đến đích ấy. Do đó, chúng ta không nên hoảng hốt hay bất mãn khi thấy một số hay nhiều phần tử trong Giáo Hội chưa tốt lành như ta mong muốn.

Vậy ta hãy nên khoan dung nhìn nhận sự kiện này như Chuá đã và đang khoan dung, nhân từ, nhẫn naị với những khiếm khuyết, lầm lôĩ, và cả tội lỗi cuả mỗi người trong chúng ta. Chắc chắn Chuá không muốn chúng ta ném đá bất cứ ai còn khuyết điểm và tội lỗi. Chuá mong muốn chúng ta luôn cố gắng thăng tiến và giúp ngươì khác nhận ra lầm lỗi và sửa đổi để được tha thứ và nên thánh. Vả lại, chúng ta đã dám tự nhận mình là ngươì hoàn haỏ chưa? Nêú chưa, thì chúng ta nên khoan dung, nhẫn nại vơí những ai đang còn khuyết điểm và bị tai tiếng, thay vì vô tình “ném đá” họ bằng những phản ứng nông nôỉ, thiếu suy nghĩ núp dưới danh nghĩa muốn “lành mạnh hoá Giáo Hội”.

Mặt khác, để giúp Giáo Hội nhìn ra những khuyết điểm trong phương thức quản trị, mục vụ và đào tạo giáo sĩ, tu sĩ để phục vụ tốt và hưũ hiệu hơn cho Dân Chúa, thì không nên chỉ bơí móc những khuyết điểm theo chủ quan của mình bằng những phê bình gay gắt như sau:

“Chức linh mục được mặc nhiên coi là chức thánh, con người linh mục được mặc nhiên coi là con ngươì thánh, dù có nhiều linh mục chẳng thánh một chút nào... Còn cách nào đề cao các linh mục hơn như thế? Về phương diện này, các chế độ độc tài hẳn phải thua xa!”

Hoặc: “linh mục và giáo dân cũng là ngươì như nhau. Trí tuệ, đạo đức, uy tín và ảnh hưởng, chưa chắc ai hơn ai.”

Đây là một vài điển hình cuả thiện chí muốn góp ý xây dựng hay đả phá Giáo Hội?

Đừng vội hiểu lầm là tôi muốn bao che, bưng bít những điều không tốt đẹp nơi ngươì này, việc nọ trong Giáo hội. Cũng không phaỉ là muốn ngăn cản giáo dân thi hành chức năng ngôn sứ cuả mình. Ngược lại, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều là xin những ai có thiện chí muốn đóng góp gì vào việc xây dựng, phát triển và bảo vệ giáo Hội thì xin làm với tinh thần Phúc Âm và trong khuôn khổ những giáo huấn của Giáo Hội về vai trò và trách nhiệm cuả mọi thành phần Dân Chuá trong Hội Thánh.

Chúng ta phải phân biệt rõ: góp ý xây dựng khác vơí chỉ trích, đả phá. Điều này áp dụng chung cho mọi sinh hoạt đúng đắn của mọi tổ chức, đoàn thể xã hội, chính trị và đặc biệt là tôn giáo. Không một đoàn thể, tổ chức nào có thể phát triển và tồn tại được nêú các thành viên chỉ chú trọng vào việc bới xấu nhau, đả kích cá nhân đưa đến phương hại uy tín chung cuả tập thể.

Nhưng nếu thấy có gương xấu (scandal) thực sự trong đơì sống cuả một hay nhiều người trong Giáo hội địa phương, nếu có sự “lạm dụng Toà giảng” (pulpit) để công kích cá nhân hay phổ biến những điêù ngoài phạm vi chia sẻ lời Chuá, hoặc thâý những sai lệch “fantaisie” (phóng túng) trong phụng vụ (thí dụ cho giáo dân đứng quanh bàn thờ để cùng giơ tay trên lễ vật với chủ tế và cùng đọc chung Lời truyền phép, mời đôi tân hôn lên đồng tế quanh bàn thờ sau khi chứng hôn, rửa tội hay chứng hôn tại tư gia, làm Lễ ngoài bãi biển hay nơi giải trí công cộng, v,v) hoặc trong cung cách hành xử cuả linh mục, tu sĩ nào đó thì giáo dân có bổn phận trước tiên là phải can đảm và thẳng thắn bày tỏ quan tâm cuả mình cách khôn ngoan, kính trọng và kín đáo vơí các đôí tượng liên hệ để xin điều chỉnh, thay đổi.

Nếu phương cách này tỏ ra vô hiệu quả thì bước tiếp có thể làm là trình cho Bề Trên liên hệ trong Giáo phận biết về mối quan tâm cuả mình. Không ai cấm giáo dân làm việc này. Không phải vâng phục mà câm nín, làm ngơ trước những sự kiện khách quan là gương xấu, là sai trái, cần được phê bình, sưả chữa. Chỉ xin một điều là đừng bày tỏ quan tâm cuả mình vì bực tức, muốn trả thù và công khai chỉ trích, bêu xấu mà hậu quả nhiên hậu là làm phương hại cho uy tín chung cuả Giáo Hội, là điều nên tránh mà thôi.

KẾT LUẬN:

Giáo dân có vai trò và trách nhiệm xây dựng Giáo Hội cùng với hàng giáo sĩ.

Giáo dân vâng phục các vị chủ chăn nhận lãnh năng quyền dạy dỗ, thánh hóa và cai trị xuất phát từ Chúa Kitô-Giêsu qua vị Đại Diện duy nhất của Chúa trên trần thế là Đức Thánh Cha xuống các giám mục, linh mục hiệp thông và cộng tác với ngài trong Giáo hội. Như thế, vâng phục các chủ chăn liên hệ (linh mục, giám mục) là vâng phục chính Chúa Giêsu mà các ngài nhân danh (in persona Christi) để giảng dạy, thánh hóa và cai trị. Sự vâng phục và kính trọng này không làm mất danh dự, địa vị và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, mà ngược lại còn chứng tỏ đức tin trưởng thành và đúng đắn của người tín hữu Chúa Kitô nữa, vì như lời Thánh Công Đồng Vaticanô II đã dạy, người Kitô hữu khi vâng phục các chủ chăn trong Giáo Hội “đã theo gương Chúa Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người” (LG. IV,37).

Tuy nhiên, Giáo Hội cũng mong đợi người giáo dân can đảm và khôn ngoan thi hành trách nhiệm của mình xuất phát từ Bí tích Rửa Tội qua vai trò ngôn sứ, tư tế và vương đế như đã trình bày trong bài này.

Các vị chủ chăn được kêu gọi không những “phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội” mà còn “nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ” được trình bày nữa (Ibid. IV,37). Nhưng giáo dân cũng phải kính trọng các chủ chăn của mình ngay cả khi phải trình bày với các ngài những ưu tư xây dựng của mình về một vần đề nào có liên quan đến lợi ích chung của Giáo Hội,của giáo xứ hay Cộng đoàn.Tóm lại, phải có sự tương kính giữa mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội. Tôn trọng lẫn nhau vì vai trò và địa vị của mình cho mục đích xây dựng và phát triển Giáo Hội của Chúa là phương tiện cứu rỗi cho mọi người, mọi dân tộc ở mọi thời đại. Tôn trọng để cùng giúp nhau chu toàn bổn phận và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội.

Hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ, Tu sĩ và, Giáo dân đều có chung một sứ mạng là hoạt động tích cực để mở mang Nước Chúa trên trần thế hầu cho nhiều ngươì được hưởng Ơn Cứu độ cuả Chuá Kitô. Tất cả đều có chung một khát vọng là được nên thánh như Cha trên trời là Đấng chí Thánh, mặc dù khác nhau về địa vị và phương thức thi hành sứ mạng cuả mình trong Giáo Hội. Sự khác biệt này không làm thương tổn đến địa vị của một thành phần nào trong Giáo Hội mà chỉ nói lên tính đa dạng của ơn gọi phục vụ mà thôi. Mong mọi người ý thức điều quan trọng này để có thái độ sống thích hợp hầu tránh gương xấu về nguy cơ tranh chấp quyền bính trong Giáo Hội.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn


Giáo dân có bổn phận và trách nhiệm gì trong Giáo Hội? phần (1), và (2)

URL: http://danchuausa.net/song-dao/giao-dan-co-bon-phan-va-trach-nhiem-gi-trong-giao-hoi-2/