Trích từ Dân Chúa

8. Huấn luyện nhà tập, bịnh và qua đời

Lm Nguyễn Huy Tưởng

Việc huấn luyện nhà tập hệ tại chỗ hướng dẫn về đời sống siêu nhiên đòi trước hết tinh thần cầu nguyện và hi sinh. Phần lớn các bề trên nhà tập có nhiều tài liệu thần học tu đức hay thần bí giúp cho những giáo huấn của họ có chiều sâu và thay đổi. Chị Diện chỉ biết tiếng mẹ đẻ nên không thể dùng những tác phẩm ấy. Do đó những giáo huấn của chị thiếu uyên bác như trong các tập viện khác. Nhưng việc thiếu chất liệu ấy, tuy dồi dào trong những nước khác, đã được bù trừ do tinh thần siêu nhiên đặc biệt của chị Diện.

Chị có tâm hồn cầu nguyện. Nhờ một thủ bản sơ đẳng nói về việc nguyện ngắm chị đã dậy dỗ với uy tín nghệ thuật cầu nguyện mà chị thi hành cách tuyệt vời. Chắc chắn kiến thức cùng với sự thánh thiện cao độ là lý tưởng cho việc huấn luyện việc cầu nguyện cho nữ tu. Nhưng cũng thường xảy ra là những nhà thông thái thần học nói về việc cầu nguyện lại không thành công bằng những người đạo đức không có kiến thức khoa học về phương diện thực hành.

Ngoài việc huấn luyện tinh thần cầu nguyện là việc nên thánh của nữ tu, chị Diện áp dụng hàng ngày việc chú giải luật giáo hội về việc tu trì, những hiến pháp hội dòng và việc thực hành các nhân đức. Chị còn nói chuyện mỗi tuần ba lần về những điểm quan trọng. Không cần phải nhắc lại, là những giáo huấn của chị, nhờ ơn Chúa, hoàn toàn phù hợp với giáo huấn chung của các tác giả. Chúng tôi xin ghi chú lại vài thí dụ theo một ghi chú của tập sinh. Việc này đủ cho ta quan niệm ý tưởng và cách thế dạy dỗ của chị Giáo tập nhân đức.

"Về vấn đề ơn gọi, có hai điểm chính:1. Xin ơn trên soi sáng để biết ý Chúa mà chọn bực sống 2. hỏi ý bề trên và cha linh hướng, vì ơn gọi là con đường dẫn đến đời đời. Khốn khổ cho ta nếu ta chọn cuộc sống ngoài ý Chúa nhất là nghịch ý Chúa."

"Cần phải giữ cả những khoản luật nhỏ, tỉ mỉ, đừng bỏ những chi tiết. Nếu các em giữ luật nhỏ cũng như lớn, thì Chúa sẽ nhân từ với các em và không từ chối điều gì. Còn trái lại nếu các em sao nhãng những luật nhỏ, Chúa sẽ rút lại nhiều ơn Chúa dành cho các em."

"Các em hãy luôn trung thành với những ơn Chúa luôn ban cho các em để thành những nữ tu hoàn hảo. Ngài luôn giàu có và ban ơn dư dật cho ai hoàn toàn phó thác cho Ngài."

"Những việc đạo đức rất quan trọng cho các em và quan trọng trong suốt cuộc đời. Phải làm hết sức mình cho hoàn hảo trong Chúa Giêsu, với Ngài, cho Ngài và vì vinh danh Ngài."

"Các em cần phải là những hôn thê hoàn toàn bỏ mình chỉ lo một chuyện là làm vui lòng vị hôn phu. Đừng trễ nải, yếu đuối kẻo làm ô danh cho gia đình của Chúa. Hãy quyết định đừng bao giờ là nữ tu tầm thường và ăn cơm nhà Chúa như mọt gậm củi và phá hoại đồ gỗ.Đây là công việc chính của các em. Hãy giao phó việc thực hiện cho Chúa Giêsu và Mẹ Ngài. Hơn nữa không có khó khăn gì cho những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa. Đừng bao giờ quên dựa cậy hoàn toàn vào Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Hãy luôn hỏi ý kiến trong mọi việc. Đừng theo ý riêng ngay cả trong những sự nhỏ nhặt. Nếu Chúa không hướng dẫn dù các em có hàng chục cha linh hướng, các em sẽ không có ích lợi gì hết."

"Mỗi ngày khi thức dậy, hãy dâng mọi lời nói, việc làm hay mọi chuyển động của tâm hồn trong ngày cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria xin các Ngài giúp các em suốt ngày. Đừng bao giờ dựa vào sự trợ lực của nhân loại nghịch lại ý Chúa. Chỉ có thế, các em mới thành nũ tu hoàn hảo theo như lòng Chúa. Nếu các em theo bản tính thay đổi, không còn tinh thần siêu nhiên, các em sẽ thiệt hại và làm phiền lòng Chúa. Các em không làm gì được và không làm ich lợi cho ai."

"Hãy dâng hiến mọi giây phút, mọi nhịp đập của con tim cho việc cứu rỗi các linh hồn tội lỗi, cho lương dân và cho các linh hồn trong luyện ngục."

"Đừng khoe khoang, đừng khinh rẻ ai. Nếu ai khinh rẻ làm cho mình phải xấu hổ, làm cho mình phải buồn phiền, thì hãy cám ơn Chúa ngay và đọc một kinh Lạy Cha một kinh Kính mừng cho những kẻ làm phiền lòng ta. Khi có dịp hãy tỏ ra dễ thương hơn và tử tế hơn với những kẻ đó hơn trước vì biết ơn họ đã giúp ta làm đẹp lòng Chúa theo cách Chúa muốn nhất. Đừng nói với ai về đau khổ người ta gây ra cho bạn."

Những giáo huấn trên cho thấy chị Diện không chỉ nói thuộc lòng nhưng còn với cả tâm hồn. Chị lại còn thực hành những gì mình dạy dỗ.

Người ta nói hành chị về điều nhiều nữ tu biết. Khi người nói hành gặp chị, chị tỏ ra dễ thương với người đó. Sau này người đó tuyên bố: "Tôi không ngờ chị khiêm nhường như vậy. Bây giờ tôi mới nhận ra chị khiêm nhường."

Mọi thứ sáu chị đều nói về sự thương khó của Chúa. Lúc đó lời chị say sưa và nóng nảy. Có thể nói khi đề cập đến sự thương khó Chúa chị tham dự vào sự lo lắng và những sự tra tấn của Chúa chịu đóng đanh. Thứ năm đầu tháng chị kể lại tuần tự những đau khổ của Chúa từ vườn Gethsemani cho đến lúc chết. Các người nghe chị đều say sưa cảm động. Càng đi vào câu chuyện tiếng chị càng run rẩy và những giọt lệ trào ra khoé mắt chị kín đáo chùi đi. Cuối cùng thì cả nhà đều khóc. Nhiều chị cho rằng không ai nói về sự thương khó hay như chị Diện.

Một thứ năm khác sau khi đánh tội, chị ngất đi và chỉ tỉnh lại sau một tiếng đồng hồ. Mỗi năm chị thức suốt đêm thứ năm tuần thánh để chầu Mình Thánh, mắt nhìn vào nhà tạm, và nhiều khi chị khóc. Chị chỉ bỏ nhà thờ lúc ban sáng để nghỉ đợi nghi lễ chiều thứ sáu.

Trong giờ chơi khi tâm sự chị thỉnh thoảng nói về quá khứ, những gì gây ra do những người muốn lấy chị, và cha linh hướng cứu ơn gọi của chị. Không bao giờ chị nói xa nói gần đến những lần được Chúa hiện ra.

Một hôm đang lúc nói về các trinh nữ đi theo con chiên khắp nơi và hát những ca khúc dành cho họ. Chị pha trò: "Chúng ta phải cố gắng đoạt phần thưởng đó. Còn riêng em, em quyết định đứng gần Chúa nhất, không cho chị nào gần Chúa hơn em đâu."Các cô gái la lên: "Chúng em cũng muốn ở bên chị và gần Chúa Giêsu."Bấy giờ chị Diện rất vui và tươi cười trả lời: "Chúng ta đồng ý như thế. Nhưng các em tất cả phải ngoan ngoãn, và yêu Chúa hoàn toàn. Hãy giữ mình sạch tội không có tì vết gì, và dù phải cắt mũi, cắt môi chúng ta cũng làm." (Chị nhắc lại câu chuyện thánh Ebbe và 30 nữ tu thánh Anphong đã nói tới trong cuốn Hôn phu thật của Chúa Giêsu, chương 1)

Hình như chị Diện được ơn đặc biệt yên ủi những kẻ sầu buồn và những tập sinh gặp chuyện lo lắng đến với chị đều ra về thơ thới hân hoan.

Những chị rời nhà tập sau khi khấn lần đầu, đều nhận được những lời khuyên thích hợp với nhu cầu. Chẳng hạn:

"Sau bao gian lao em mới được khấn. Sau những thử thách ở tập viện chỉ là những thực tập, em sẽ còn phải vác những thánh giá thật của cuộc sống tu trì. Em hãy can đảm và yêu mến mang những thánh giá đó. Em hãy giữ lời khấn cho tỉ mỉ. Chị thích em chết trước mặt chị còn hơn thấy em lỗi luật nhỏ."

Chị vẫn tiếp tục để ý đến những nữ tu đã rời tập viện, khi thì lớn tiếng khuyến khích họ, khi thì gửi thư, tuỳ trường hợp. Khi nghe ai phê bình tập sinh của chị, chị rất nhậy cảm vì chị cho là do giáo huấn thiếu sót của mình. Lúc đó chị thổ lộ: "Em sẽ cố gắng huấn luyện các em tốt hơn trong tương lai nhất là cầu nguyện cho các em nhiều hơn sau khi các em khấn."

Như thế bằng gương sáng cũng như lời dạy dỗ, chị đã thu hút nhiều phần tử trong cộng đoàn. Chị được kính trọng, quí hoá và nhất là được yêu mến. Tại tập viện mọi người coi chị tốt hơn hết các nữ tu trong dòng. Nhiều chị còn coi chị là thánh. Sau khi chị chết nhiều người cầu xin chị và có người đã được ơn của chị.

Có người xin chị những ơn vật chất. Một hôm có chị giáo, cựu tập sinh của chị Diện được một em học sinh nhỏ khóc lóc cho hay:

"Xin chị cầu cho mẹ em. Đêm qua mẹ em bị sưng cổ và miệng. Mẹ em đau lắm không ăn và uống gì.

Chị giáo cảm động nhớ tới chị Diện và nói với em:

"Trong nhà dòng có một chị rất thánh thiện mới qua đời. Em nói với mẹ và cả nhà mỗi trưa đọc ba kinh lạy cha, kính mừng sáng danh trong vòng ba ngày xin chị Diện cầu Chúa cho mẹ em. Chị sẽ hợp ý với em trong cùng giờ đó.

Hôm đó vào buổi trưa khi đọc kinh, người bịnh thấy cổ bớt sưng và có thể ăn được tí chút. Ba hôm sau bà hoàn toàn khỏi bịnh.

Dù cho việc khỏi bịnh là phép lạ hay không thì câu chuyện đó cũng chứng minh sự kính phục của chị đó với chị Diện. Nếu tại nhà tập tấm lòng mạnh mẽ và dễ thương của chị đã chinh phục mọi tâm hồn thì tại những nơi khác không có như thế. Tuy nhiên tại nhà khách, những người tới thăm đều bị vẻ dịu dàng và bình dị của chị chinh phục cũng như cuộc nói chuyện siêu nhiên và dễ chịu. Những người đến thăm thường là các linh mục đến thăm con thiêng liêng.

Cuộc nói chuyện ở nhà khách không kéo dài. Tuy nhiên cũng đủ cho vài năm sau chị giáo tập nhận ra nhu cầu truyền giáo thánh Têrêxa chỉ cho các nữ tu: cầu nguyện và hi sinh cho việc thánh hoá các linh mục. Chị có thể dùng những lời của thánh nữ sau đây: "..Con đã gặp nhiều linh mục thánh thiện và con thấy rằng nếu địa vị các ngài cao hơn thiên thần thì các ngài vẫn là những con người yếu đuối và mỏng dòn. Vậy nếu những linh mục thánh mà Chúa Giêsu trong phúc âm gọi là muối đất, còn nói là mình cần cầu nguyện thì phải nghĩ sao về các linh mục nguội lạnh?..Ơn gọi của ta đẹp đẽ biết bao? Chính chúng ta, chính tại dòng Kín chúng ta phải gìn giữ muối đất."(Histoire d'une âme, chương 6).

Mùa vọng năm 1942, chị Diện lại ao ước lần thứ ba và là lần cuối, muốn rút lui vào dòng Kín để trong thinh lặng cầu nguyện và hi sinh. Nhưng vì chị chỉ muốn biết và theo ý Chúa nên chị làm tuần chín ngày sốt sắng kính thánh nữ Têrêxa để xin cầu bầu cho mình vào dòng Kín.

Ngày cuối cùng của tuần chín ngày chị thổ huyết rất nhiều, cho thấy chị bị lao phổi. Câu trả lời của "người con yêu của trần gian "thật rõ ràng. Bịnh tật không làm chị sợ hãi. Chị hiểu ý Chúa và sẵn lòng vâng theo. Chị cũng không sợ chết.

Tại nhà tập người ta không dễ dàng chấp nhận. Tin chị thổ huyết làm mọi người lo lắng. Chị giáo được yêu mến như mẹ và tôn sùng như nữ thánh ở đây. Họ muốn giữ chị lại dù cần đến phép lạ hạng nhất. Họ cầu nguyện và làm tuần cửu nhật liên tiếp. Đồng thời họ cho mời những bác sĩ danh tiếng nhất. Người ta mời cả bác sĩ Chesneau người Pháp đã tận tuỵ săn sóc chị. Cũng có giảm bớt nhưng cũng có trở bịnh cho thấy đó là dấu hiệu của bịnh hiểm nghèo.

Trời cao hình như làm thinh trước lời cầu khẩn của tập sinh và việc trị bịnh không mấy kết quả. Dù kiệt sức nhưng hễ khoẻ lại là chị tiếp tục công việc nhưng lại phải ngưng vì ho ra máu. Bao tử yếu, cộng thêm vết thương bên sườn không làm sao tẩm bổ cho chị để chị đủ sức chống bịnh.

Sau cùng người ta cho chị đi đổi khí nhưng cũng không thuyên giảm. Chị được đem về Phát diệm có bác sĩ cho là có thể chữa bịnh được. Tuy nhiên kết quả cũng không có gì. Ít ra chị cũng được các chị trong nhà mẹ săn sóc và lưu ý. Không còn có thể yêu chị hơn được nữa. Chị cảm thấy mọi người thương mình thật tình. Mây mờ che phủ trong những năm nhà tập và những năm sau khi khấn đã biến tan. Chị cám ơn Chúa vì ơn đó.

Sau cùng không thể lành bịnh nên chị về Thanh hoá trong tình trạng rất yếu đuối vào tháng 2 năm 1944.Chị liệt giường và không bao giờ chỗi dậy nữa. Cái màn che muỗi quanh giường chị đã trở thành căn phòng nhỏ cho chị tiếp tục làm việc đạo đức cách gương mẫu. Bức hình thánh nữ Têrêxa Hài đồng treo trước mặt chị. Vài tấm ảnh đạo đức và thánh giá bên tay biến căn phòng đó thành tu viện.

Mỗi ngày chị được rước lễ sốt sắng hơn. Khi cám ơn chịu lễ bộ mặt chị sáng lên niềm vui được kết hợp với Chúa Giêsu.

Trong thời gian này chị nữ tu chống đối mạnh mẽ nhất việc đề cử chị làm giáo tập đến thăm chị. Sự tiếp đón và cuộc nói chuyện thân tình đến nỗi chị này ra về hoàn toàn bị xao động và ngạc nhiên về sự khiêm nhường và đức bác ái của chị Diện. Chị thường lập đi lập lại: "Tôi không bao giờ nghĩ chị khiêm nhường như thế."

Tất cả các chị săn sóc hay đến gần chị từ khi chị bị bịnh đều công nhận là chị không bao giờ kêu trách phàn nàn về bịnh của mình. Chị chịu đựng tất cả trong an bình siêu nhiên. Ngoài vi trùng lao gậm nhấm hai lá phổi chị còn đau bao tử và vết thương ngang hông từ 20 năm nay. Không ai biết chị đau như thế và cho đến khi chị chết không ai biết được tại sao chị mang vết thương nơi cạnh sườn.

Các y tá kính phục sự chịu đựng đau khổ của chị. Hai năm sau có cô cũng săn sóc một nữ tu bị bịnh phổi như chị. Có người nói chị này cũng can đảm như chị Diện thì cô y tá này cho rằng: "Chị này kiên nhẫn đáng khen nhưng không so với chị Diện vì chị Diện là nữ thánh."

Vì chị đạo đức nên có em xin chị viết cho mình kinh đọc trong ngày khấn. Sau đây là kinh vẫn còn đọc trong nhà tập: "Lạy Chúa Giêsu, con hết lòng cám ơn Chúa vì ơn đặc biệt Chúa đã ban cho con là kéo con ra khỏi thế gian để cho con dâng mình làm nữ tu và làm con yêu của Chúa. Hôm nay con dâng mình con cho Chúa không giữ lại gì. Con quyết định dứt bỏ những tính nết cũ, nghĩa là những thói quen ở trần gian để mặc lấy những nhân đức tuyệt vời của Chúa. Lạy Chúa Giêsu hãy đến với con như con phó mình cho Chúa. Xin ban cho con tràn đầy nhân đức đời sống trọn lành đòi hỏi, và Chúa đã chọn cho con ngày hôm nay. Xin cho con đẹp lòng Chúa và nên giống Chúa như khi Chúa còn ở trần gian. Xin cho con luôn can đảm và trung thành với Chúa. Xin đừng bao giờ để cho con thành dịp cho Chúa bỏ con. Amen."

Sau đây là những lời khuyên cuối cùng của chị cho con cái khi họ xin chị: "Chúa nhân từ đã kêu gọi các em tận hiến cho Ngài, đó là ơn đặc biệt. Hơn nữa Ngài đã dẫn các em vào nhà tập. Trong thời gian ở đây các em hãy cố gắng trở thành những tập sinh tốt. Vì thế các em phải cố sử mình và bỏ những thói thế gian. Hãy tập các nhân đức của nữ tu và giữ luật cho trọn. Nếu không có ý đó các em chỉ là tập sinh vô ích và phải đuổi về thế gian. Trong thời gian ở nhà tập nếu các em chỉ là tập sinh tầm thường thì sau này các em chỉ là nữ tu tồi tệ không ích gì cho nhà dòng và giáo hội lại còn làm hại nữa.

Sau khi khấn các em hãy là hôn thê trung tín hoàn toàn với Chúa Giêsu, khôn ngoan, và sung sướng được tuân theo ý Ngài. Trong lúc buồn vui hãy khôn ngoan theo ý Chúa. Đó là điều chị muốn các em giữ vì tình yêu Chúa để trong thế giới bên kia chị có thể vui mừng vì các em."

Chị phụ tá nhà tập xin chị Diện và chị cho những lời khuyên sau đây mấy ngày trước khi chết:

"1. Khi gặp nghịch cảnh, bất cứ từ đâu tới, chị hãy bình tĩnh, đừng nóng nẩy phàn nàn. Nghịch cảnh là quà Chúa gửi cho ta. Chỉ cần ý ngay và làm mọi việc chỉ vì tình yêu Chúa. Còn mọi sự thế gian khen chê chỉ là giả trá.

2. Mọi bề trên phải là đèn để trên cao soi sáng cho mọi người.Cũng như dòng suối rất trong lành đem vào máng. Lòng của chị phải là sông mang ơn Chúa cho những người Chúa trao phó cho chị.Khi thấy có vết nhơ nào trong lòng hãy lo thanh tẩy ngay. Chỉ có thế chị mới giữ ơn Chúa được và thông ban cho người khác.

3. Phải ghét tội cho thật và ghê gớm những khuyết điểm nhỏ nhất, thống hối và sửa mình cũng như xin ơn tha thứ ngay. Lòng chị đừng bao giờ dính bén tội lỗi, dù cho cả hình bóng của tội lỗi nữa.

4. Tâm hồn ta phải có tình yêu Chúa cho thật nhất là đức thương yêu không thiên vị và đồng đều cho mọi bề dưới, sửa lỗi cho họ như từ mẫu và tránh đừng thiên vị.

5. Tránh không nên hấp tấp nhất là khi sửa dạy. Khi thấy mình sắp nổi nóng hãy giữ im lặng cho đến khi bình tĩnh trở lại. Chỉ như thế mới gọi là lấy tình thương sửa chữa lỗi lầm.

6. Sự kiên nhẫn và khiêm nhường rất cần thiết cũng như dễ thương với những người nói chuyện với ta nhất là khi nói về lỗi kín. Trên hết phải có lòng mến Chúa và khiêm nhường sâu xa. Chỉ có bề trên khiêm nhường và nhẫn nại mới đáng giữ chức vụ cao.

Trong những lời khuyên này ta thấy cuộc sống của chị hay ít ra lý tưởng chị theo đuổi trong cuộc sống nữ tu. Sức lực chị yếu dần và chị phải nhường chức cho chị phụ tá. Chị chỉ còn sống đời khổ đau và trong cuộc sống đó chị tỏ ra nhẫn nại trong mọi thử thách và kết hợp liên lỉ với Chúa Giêsu chịu đóng đanh.

Nhiều nữ tu cho là quỉ trở lại cám dỗ chị công khai. Có mấy dấu hiệu cho thấy nó đã trở lại. Chị bị cám dỗ kinh khủng. Một hôm quỉ làm cho chị ghét cay ghét đắng những cộng sự viên mà chị thường yêu mến. Người ta thấy chị có vẻ nhăn nhó nhưng không nói ra lời nào. Vài giờ sau chị kể lại mình phải cố gắng làm sao mới chống lại được cơn cám dỗ như thế.

Có chị nữ tu thương hại cho tình trạng của chị, chị nói:

"Em thường nghe tiếng nói: Diện ơi, con ta ơi, vì ta yêu con mà ta để con bị đau khổ như thế."

Bịnh lao trở nặng không còn hi vọng chữa khỏi nên chị được nhiều người thương mến đến thăm nhất là các linh mục. Chị thường lợi dụng để xưng tội. Trong những dịp như thế người ta mới thấy chị ghét cay ghét đắng cả những lỗi lầm nhỏ mọn của tập sinh.

Nghe tin có một người danh giá đến thăm, chị hơi mất tự chủ khi phải bỏ tay áo xuống vì nóng quá. Nhưng chị ngưng lại ngay. Khi người đó vào, chị lấy lại nụ cười dễ thương nhưng chị xưng tội ngay khi có linh mục đến thăm.

Chị tiếp tục can đảm lên núi Calvaire và luôn hôn chân Chúa chịu đóng đanh. Tháng 6 năm 1944 bịnh nặng đặc biệt. Tưởng chị sắp chết nên trong lễ Thánh Tâm chị sốt sắng chịu phép sức dầu. Chị thấy cái chết đến mà không lo lắng.

Hôm đó trong nhà tập ai cũng buồn. Tất cả con cái chị Diện đã cầu nguyện và làm hết tuần chín này đến tuần chín khác để xin Trời giữ lại chị giáo tập không ai có thể thay thế. Nhưng đường lối Chúa không phải đường lối của ta.

Trong tháng bảy tình trạng khó thở tăng thêm đau đớn và càng có những cơn nghẹt thở. Nhưng khi hết cơn chị lại tỉnh táo, hoạt bát và còn giả vờ nghẹt thở để làm trò cười. Đôi khi đau quá chị bất động, nhắm mắt và hai tay ôm chặt thánh giá.

Suốt tháng cuối cùng chị thực như bị tra tấn. Chị không thể cựa mình như bị đóng đanh vào giường. Lưng chị nóng bỏng. Chị luôn lập lại những lời của Chúa khi hấp hối trong vườn Cây dầu, khi mang thập giá hay khi sắp chết trên núi sọ.

Đầu tháng 8 năm 1944 chị ăn bữa ăn sau cùng. Không như mọi khi chị lại đòi ăn món này món kia. Hình như chị lại ăn thấy ngon đôi chút. Nhưng hôm sau thì cổ và miệng chị cũng bị. Từ đó chị không ăn uống gì được nữa.

Người ta tính không cho chị rước lễ vì thấy chị không rước lễ được nữa. Chị phản đối điều đó, giọng nói bình thản làm cho không ai dám trả lời chị và từ đó chị vẫn được chịu lễ cho đến khi chết.

Sự khát nước thực là một cực hình. Nhưng chị vẫn mỉm cười và thường than thở: "Lạy Chúa Giêsu con sung sướng được chịu đau khổ vì khát nước cho Chúa, vì trên thánh giá Chúa đã chịu khát vì con."Một lần khác khi cuống họng hoàn toàn khô cứng chị than thở: "Chúa Giêsu ơi, con khát quá. Nhưng xin cho ý Chúa nên trọn. Xin Chúa đừng lưu ý đến thân xác tội lỗi đang khát khao này. Xin Chúa tha tội cho con."

Đêm 10 và 11, đêm cuối cùng của chị, chị bị sốt nặng.Hoàn toàn yếu nhược, nhức đầu, mồ hôi vã ra, chị phải nhờ hai chị khác giúp đỡ. Trong suốt một tiếng đồng hồ, các chị lau mồ hôi cho chị. Khi hết cơn sốt các chị thấy khăn tay lau mồ hôi thấm đầy máu dù chị không có thương tích trên đầu. Một chị khóc lớn kêu lên: "Chị đội mạo gai phải không?"Nhưng chị cười đau đớn trả lời cho chị kia.

Cơn khát gây đau đớn tăng dần vì kéo dài. Gần một tuần lễ cơn đau đến cùng cực và nhìn chị ai cũng thương hại. Nhưng chị không hề hé môi thở than. Cả nhà cầu nguyện với Đức Mẹ và vào lúc 10 giờ đêm chị uống nước thả giàn cho đến khi chết.

Tuy nhiên chị Diện đã yếu lắm. Mọi người cho rằng cái chết chỉ còn là vấn đề giờ nào thôi. Chị cũng cảm thấy mình gần chết và hỏi bề trên xem mình chết được chưa.

Ngày áp lễ Đức Mẹ Lên trời chị chỉ còn thoi thóp. Ai cũng nói Đức Mẹ sẽ đem chị về trong ngày lễ Mẹ. Chị không chịu như thế và nói không muốn cả nhà phải tang tóc trong ngày lễ vui của Mẹ.

Lời tiên đoán hay đúng hơn, sự tiên cảm đó đã xảy ra. Sáng 16 chị còn chịu lễ như những ngày khác. Nhưng chị xin đừng bỏ chị một mình. Chị vẫn tỉnh táo cho đến cùng.

Vào lúc trưa chị cố gắng ngồi dậy xin người ta giúp chị. Đột nhiên chị ngả đầu xuống gối và linh hồn chị bay về với Chúa là quan án, Dấng chị yêu mến phụng thờ.

Gần hai mươi năm trước, chị ngạc nhiên vì Chúa thương mình đã than thở: "Nếu trong ngày phán xét Chúa cũng nhân từ và tốt lành với con nhu khi Chúa hiện ra bây giờ, con đâu có sợ gì."Chúa Giêsu đã trả lời: "Nếu con sử dụng ơn của cha không những cha sẽ tốt với con trong ngày phán xét mà cha sẽ còn nhân từ hơn và con sẽ sung sướng hơn trong ngày đó hơn là khi hiện ra với con bây giờ."Ta có thể hi vọng là chị đã chu toàn những điều kiện của Chúa và như thế Chúa đã giữ lời hứa với chị.

(Hết)

Lm Nguyễn Huy Tưởng

Tr Trước | Mục Lục | Tr Sau

URL: http://danchuausa.net/quy-nhap-tu-vien/8-huan-luyen-nha-tap-binh-va-qua-doi/