Trích từ Dân Chúa

Chương III: Giáo Hội (3)

Phạm Hồng Lam

16. ĐẶC SỦNG

GIÁO HỘI SƠ KHAI

- Không một vị thiên sai nào để lại cho tín đồ mình một của nợ thế chấp lớn như đức Giê-su đã để lại. Ngài tự để bị hạ nhục, bị tra tấn và cuối cùng bị giết. Và đã không có gì xẩy ra. Không một toán quân đến để kéo Ngài ra khỏi tay những kẻ làm nhục Ngài. Con Thiên Chúa mà lại không tự mình xuống khỏi thập giá. Và cũng chẳng phải hết mọi người tin vào sự sống lại của Ngài. Giờ đây, môn đồ Ngài đang quanh quẩn ở Giê-ru-sa-lem. Họ sống một phần nhờ vào quà tặng. Nhưng cũng nghe kể rằng, những tín hữu tiên khởi đó sống trong yêu thương và tình anh em : “Mọi người đều cùng một tâm một trí. Không ai trong họ phải khó khăn túng quẫn”. Làm sao mô tả cái Giáo hội nguyên thuỷ đó ? Đó là một kiểu công xã cộng sản ?

Người ta đã hay so sánh Giáo hội đó với công xã cộng sản. Nhưng không đúng, vì một đàng là một tổ chức nhà nước trói buộc, một đàng là một cộng đoàn hình thành từ tự do của lòng tin, từ lời rao giảng của các tông đồ trong ngày lễ ngũ tuần.

Sách Công-vụ Tông-đồ cho ta hay, lời giảng đó đã đi vào lòng người như thế nào. Lời đó đã chạm tới con tim và đã rúng động nó ra sao. Người ta đã cảm nhận được cái gì thực sự mới mà họ đang chờ đợi ; mình phải thay đổi, mình phải quay về nẻo chính. Chỉ trong vòng một ngày có tới 3000 người rửa tội, sách viết như thế. Và Giáo hội tiên khởi đã hình thành từ đó, lúc họ còn đang sống trong nỗi hân hoan của Thánh Linh, trong cảm nhận trực tiếp của ngày ngũ tuần.

Những con người đó đã thực hiện được một cộng đoàn trong đức tin kiểu mẫu – dĩ nhiên không phải có thể áp dụng cho bất cứ ở đâu - : không để ai trong họ phải nghèo đói, họ chia sẻ cho nhau và cùng chung nhau một trái tim, một tâm trí. Trong lịch sử, khuôn mẫu cộng đoàn đó luôn là một cái gai khó chịu cho một Giáo hội đã tục hoá, sống theo mẫu mực trần thế.

Cả cuộc sống dòng tu cũng hình thành theo lí tưởng trên. Thánh An-tịnh đã đem câu „ họ sống cùng một tâm một trí với nhau trong một cộng đoàn“ làm trọng điểm áp dụng cho luật dòng của ngài. Ngài hi vọng giáo phận mình ít ra sẽ giữ được ngọn lửa sống động của Giáo hội tiên khởi, nhờ sự có mặt của cộng đoàn tu nhỏ bé điển hình đó trong giáo phận. Cùng với tiến trình phát triển của Giáo hội, khuôn mẫu trên hẳn đã không còn áp dụng được cho bất cứ nơi nào, kể cả từ thời các tông đồ, nhưng nó trước sau vẫn là cái gai. Vấn đề là, không được để ai trong Giáo hội phải nghèo đói, không được bỏ rơi ai. Đó là đòi hỏi ngày hôm nay đang đánh động ta một cách cụ thể.

- Tại sao những người Do-thái theo đạo đầu tiên lại bỏ tục cắt bì ?

Đó là cuộc tranh luận lớn, chủ yếu do Phao-lô tạo ra. Thoạt tiên, người ta công nhận đức Giê-su Ki-tô là vị cứu tinh của Is-ra-en. Họ nhìn ra nơi Ngài một kiểu sống do-thái giáo khác. Nhưng câu hỏi: như vậy luật cũ, đặc biệt là một thói quen đã có trước luật Mai-sen như tục cắt bì, còn tiếp tục có giá trị không? Câu hỏi này đã không có câu trả lời một cách đương nhiên được.

Tiến trình đi tới với những người ngoại giáo diễn ra từng bước một. Đã có cuộc gặp gỡ giữa Phê-rô với Cornelius, người lính đội Rô-ma. Trong một thị kiến, Phê-rô thấy tất cả mọi người đều được thanh tẩy, và sự thanh tẩy đó đến từ đức tin, chứ không phải do máu huyết Abraham, như người ta lúc đó vẫn tin. Và cuối cùng, khi người ngoại ở Antiokia bước chân vào đền thờ, họ nghe và muốn đón nhận sứ điệp của đức Ki-tô, thì câu hỏi được đặt ra : Nếu giờ đây họ muốn trở thành ki-tô hữu, thì họ buộc phải tuân theo tục lệ do-thái hay sao? Họ phải cắt bì ? Từ đó nẩy sinh ra nhận thức: muốn thành môn đệ đức Ki-tô, người ta không buộc tuân theo tục lệ do-thái một cách bề ngoài, nhưng phải bước vào cộng đoàn tinh thần của Ngài. Nhận thức trên đây chủ yếu do Phao-lô khởi xướng và đã được công nhận. Nhận thức đó ngài đã lãnh hội được qua cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa ngài với Chúa Ki-tô phục sinh. Chính đức Ki-tô là sức mạnh thanh tẩy. Và nghi thức dẫn vào Dân Thiên Chúa mới đó là phép rửa. Và ai đã nhận phép rửa, chẳng còn cần cắt bì.

- Phao-lô chẳng phải luôn là người cấp tiến, như ngài đã chứng tỏ trong việc cắt bì. Trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Kô-rin-tô, ngài đã nói về địa vị phụ nữ trong Giáo hội, họ phải đội khăn che mặt mỗi khi dự lễ, như là “dấu chỉ của sự phục tùng”. Và nữa : “Trong buổi họp họ phải im lặng. Họ không được phép mở miệng. Họ phải phục tùng, như luật đã ra. Nếu muốn biết gì, nên về nhà hỏi chồng. Bởi vì chuyện phụ nữ mở miệng trong buổi họp là điều không xứng hợp”. Phải chăng đó là sự khinh miệt phụ nữ ? Quan điểm của Phao-lô đã thắng thế trong Giáo hội ?

Ngay điểm này, các thư Phao-lô phải được hiểu theo nhiều cách. Một mặt, câu trên dĩ nhiên gợi lên í tưởng phụ nữ phải phục tòng. Đã có người muốn vứt đoạn đó ra khỏi thư ngài, nhưng làm vậy là vô nghĩa. Mặt khác, phụ nữ ngày nay cũng hay nại tới Phao-lô, bởi vì họ thấy nhiều chỗ trong các thư ngài các bà đóng một vai trò đặc biệt và có sự cộng tác rất chặt chẽ với ngài. Ngài nói với người này, bà là mẹ của tôi. Với những người khác, họ là “những kẻ mang ách đồng hành”, những người cùng hợp tác với ngài để phục vụ Tin Mừng. Một chỗ khác, ngài gọi một bà là tông đồ.

- Nói vậy thì nghe vậy.

Đức Giê-su đã được các phụ nữ thông cảm, đi theo và hỗ trợ. Cũng thế, các bà cũng đã đóng một vai trò rất đặc biệt trong sứ mạng của Phao-lô. Chẳng hạn như Lydia, cô bán phẩm đỏ ở Phi-li-pi, đã ép ngài và những bạn đồng hành nghỉ lại nơi nhà cô, và như thế cô đã trở thành khởi điểm của truyền giáo. Như vậy thì Phao-lô chẳng phải là “tay tranh đấu cho nam quyền một cách ẩu tả”, như cảm tưởng tạo ra bởi câu trích trên, nhưng ngài đã tiếp tục làm theo gương của đức Giê-su Ki-tô trước đó.

Hẳn nhiên, ta cũng thấy tính cách hai mặt nơi Phao-lô. Ngài là kẻ đã vượt qua luật lệ do-thái để tới với dân ngoại, và nhờ vậy đã mở ra chiều kích hoàn vũ cho Giáo hội ; là kẻ chống lại Phê-rô trong tục lệ ăn uống. Nhưng cũng một Phao-lô đó là người vẫn coi một số thói tục cũ là tốt và không muốn bỏ chúng. Mỗi con người, dù sao, đều muốn giữ lại một góc bảo thủ cho mình, nếu ta muốn nói như thế.

Tóm lại, tôi nghĩ, có hai mặt nơi Phao-lô. Một mặt, ngài không cho phụ nữ giảng trong phụng vụ. Mặt khác, ngài lại dành cho phụ nữ một vai trò lớn trong toàn bộ lịch sử Giáo hội.

PHAO-LÔ

- Hãy nhìn nhân vật đó kĩ hơn. Phao-lô ra đời với tên Sao-lô vào khoảng năm thứ 10 sau công nguyên và tiếp nhận từ cha mình truyền thống gia đình pha-ri-sêu nghiêm nhặt. Nghĩa là trong ông sôi sục hận thù và chém giết những tín hữu ki-tô đầu tiên – cho tới khi gặp được tia sáng trên đường săn người gần Đa-mát, và đã trở lại đạo với tên Phao-lô. Tiếp đó, ông vào sa mạc, một mình chuẩn bị cho công cuộc phục vụ mới. Chính ông cũng chẳng hiểu ra được cái bí mật khiến ông trở thành “thầy dạy cho dân ngoại”, như ông đã viết.

Quả có gì lạ lùng trong đó. Thật ra ngài là một tay Pha-ri-sêu say mê và cực đoan. Thái độ cuồng tín đó phù hợp với lòng đạo rực lửa của ngài. Chữ ‘cuồng tín’ đóng một vai trò lớn trong truyền thống Cựu Ước. Từ “Zelot”, có nghĩa là cuồng tín, cũng mang nội dung đặc biệt trong thời đức Giê-su. Phao-lô là một kẻ cuồng tín như thế - và đã được cải tà qui chính bởi tiếng gọi của Đấng phục sinh.

Từ trong làn ánh sáng đó Phao-lô giờ đây nghe đấng Phục sinh nói với mình. Bởi thế, ngài dám nói rằng, chính mình đã gặp đấng đó thêm một lần nữa, rằng chính đấng đó đã gọi và ra lệnh cho mình. Và cũng vì vậy mà ngài cảm thấy ngang hàng với mười hai tông đồ kia. Rõ ràng ngay từ đầu, ngài đã nhận ra sứ mạng rao giảng cho dân ngoại của mình. Với Phao-lô, chúng ta thật sự có được một nhân vật kiệt xuất phục vụ đức Giê-su Ki-tô, mà nếu không, hẳn chúng ta đã không thể nói cho lương dân hay biết về Giáo hội được.

Phao-lô lặn lội từ đất này qua đất khác, nhưng không phải luôn may mắn với số phận. Ngài đã ghi lại : “Từ thành này sang thành khác, chỉ điều này Chúa Thánh Linh làm chứng cho tôi, là xiềng xích và tai hoạ đang chờ tôi”. Ngài bị tống ngục, bị đắm tàu giữa biển, cuối cùng lội bộ được tới Rô-ma và bị hoàng đế Nero chém đầu năm 67. Ngài phải là một tay hay cãi. Có lần một thầy cả thượng tế than : “Tay này là một nạn dịch”. Và ngài đã thoải mái bốp chát lại : “Này bức tường giả hình kia, Chúa sẽ đánh ngươi”.

- Nhưng rồi ngài lại làm chuyện lạ lùng, người ta dùng khăn lau của ngài để chữa lành bệnh. Có lần ngài cạo trọc đầu vì một lời hứa. Lần khác ngài bực dọc ra lệnh cho thần bói toán rời khỏi người đàn bà vẫn dai dẳng đi theo ngài suốt ngày. Sau đó thì ngài bị tù, chuyện chả có gì là khó hiểu. Những người chủ cũ của bà kia buồn so, vì họ chẳng còn có được lời bói toán nào nữa.

Anh muốn nói đến cuộc đời phiêu lưu của vị thừa sai nổi tiếng kia. Các thư của ngài không phải là những luân thư được viết với đắn đo, nhưng chúng thể hiện cá tính rực lửa của ngài. Các thư đó phản ảnh toàn bộ nỗi đam mê khổ đau của một con người dấn thân. Chúng cũng cho ta biết những gì đã xẩy đến cho ngài : bị quẳng cho thú vồ trong thao trường, bị tống ngục, nhiều lần bị hình phạt do-thái đánh 40 trừ 1 roi, bị cướp trấn lột, bị đau khổ vì bạn bè và kẻ thù, bị đắm tàu lênh đênh trên biển, và còn nhiều thứ nữa. Thật khó có cuộc đời nào phiêu lưu và nhân bản hơn đời ngài.

- Không phải Phao-lô bao giờ cũng được báo cáo đầy đủ. Khi tới Ê-phê-sô, ngài hỏi bà con ở đó : “Các bạn đã nhận Thánh Linh chưa ?” Họ trả lời : “Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói có một Chúa Thánh Linh”.

Dĩ nhiên ngài phải hỏi xem tình hình tín hữu địa phương, mỗi khi ngài tới một cộng đoàn nào đó. Xem ra, năng khiếu hạn chế của ngài không cho phép ngài làm được một số chuyện lớn. Ngài nói về chính mình : Các bạn cũng biết là tôi không có khiếu ăn nói, tôi không phải là nhà hùng biện ; và người ta thầm thì về tôi : “đọc thư thì tưởng ông ấy dữ, nhưng khi tới, thì thấy rất nhẹ nhàng”…

- … có lần có người ngủ gục khi đang nghe ngài giảng….

… vâng, và người đó đã ngã qua cửa sổ. Đó là một chuyện. Ngài nói :”Tôi xuất hiện không với khả năng hùng biện lớn, nhưng với sức mạnh”. Ngài muốn nói với sức mạnh của đức Giê-su Ki-tô, sức mạnh đó cũng đã được thể hiện qua các phép lạ. Rõ ràng ngài đã được trao ban cho khả năng chứng tỏ đúng lúc về sự hiện diện của chính đấng quyền năng hơn, đó là đức Giê-su Ki-tô, và qua đó tự giới thiệu mình như là một kẻ thuộc về Ngài. Không phải năng khiếu riêng của Phao-lô đã tác động, nhưng chính sự thật mà ngài phục vụ đã tác động.

- Nghe nói Phê-rô thường lấy thư Phao-lô làm dẫn chứng cho tông thư mình. Tương quan giữa hai vị ấy với nhau thế nào ?

Rõ ràng đã có những căng thẳng giữa hai vị. Trong Kinh Thánh có hai thư của Phê-rô. Nhưng các học giả không công nhận lá thư thứ hai là do ngài, mà do một ai đó thuộc trường phái phê-rô viết, thư này có niên đại rất trễ. Dù sao, thư đó muốn tiếp nối gia sản phê-rô một cách đặc biệt (và cũng vì thế mà Giáo hội nhận vào danh sách quy điển). Thư thứ hai này đề cập tới hiện tượng lạm dụng của Phao-lô. Thư viết : Ông bạn Phao-lô của chúng ta viết nhiều, có chỗ rất khó hiểu – và cũng có chỗ ám chỉ sai. Và rồi Phê-rô cảnh giác, việc diễn nghĩa kinh sách cần phải đi theo đường lối của Giáo hội. Thư đó một mặt cho thấy cử chỉ tôn trọng đối với Phao-lô, người được công nhận là thầy dạy lớn, mặt khác cũng cảnh cáo đừng lạm dụng hay hiểu sai Phao-lô.

TRUYỀN GIÁO

- Đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô lệnh cho các nhà truyền giáo người Anh: „Không được phá các đền thờ của dân ngoại, nhưng chỉ phá các thần thánh để trong đó mà thôi. Rồi chuẩn bị nước thánh, rẩy lên các đền thờ đó. Lập bàn thờ, rồi mang vật thánh của mình vào“. Và tiếp: „Khi chính dân đó không thấy đền thờ họ bị phá, họ sẽ vui lòng từ bỏ lầm lẫn mà trở về nhìn nhận và cầu nguyện Thiên Chúa chân thật“. Cái khôn của Ki-tô giáo là đó. Grê-gô-ri-ô viết: “Vì họ đã quen giết trâu bò tế lễ quỷ thần, mình nên lập ra những lễ hội khác cho họ tiếp tục tế“.

- Do đâu cuộc truyền giáo đã thành công vượt bực, vượt qua mọi văn hoá và ngôn ngữ, như thế? Nhờ vào cách hiện diện khôn ngoan? Nhờ vào những phép lạ? Hay nhờ vào những mệnh lệnh và phương thức truyền giáo khôn khéo như của đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô?

Tại sao cuộc truyền giáo đã quá thành công và đã bao trùm cả đế quốc nhanh như thế? Đó là một câu hỏi lớn. Vì nó mang tầm vóc quá lớn, nên ta đừng nên quá lạm trong câu trả lời. Dưới thời Constantinus*, Ki-tô giáo chỉ có vài phần trăm, dù được hoàng đế này coi đó là thành phần quyết định cho tương lai. Thành công nhờ đâu? Là vì tôn giáo của dân ngoại đã mệt mỏi, và không còn đáp ứng lòng tin cậy của con người. Nó chỉ còn là một cỗ xe chính trị, chẳng ai tin vào huyền thoại thần thánh nữa. Ở thôn quê, nó vẫn còn là một yếu tố thiết thân với đời sống với những cuộc rước xách, nhưng tại các thành phố, các thần thoại một cách nào đó đã trở thành trò cười cho thiên hạ. Các thần thoại có nhiệm vụ tạo ổn định cho Đế quốc (Rô-ma), nhưng khi người ta không còn tin nữa, thì đương nhiên vai trò ổn định đó không còn.

- Vào giai đoạn sau của Đế quốc Rô-ma, người ta bắt đầu đặt câu hỏi về con người và thượng đế. Thời đó đã có những phong trào triết học đề cập tới một thiên chúa duy nhất, nhưng chúa đó là do con người nghĩ ra, không thể cầu khẩn gì được với vị đó. Giờ đây bỗng nhiên nổi lên một phong trào cũng rao giảng về một Chúa, nhưng Chúa này phát xuất từ nguồn gốc tôn giáo.

Ở đây phải thêm điểm này: Ngay từ cuối Cổ thời, trong khi đi tìm một đức tin phù hợp với lí trí, người ta bắt gặp một lôi cuốn đặc biệt nơi Do-thái giáo. Nhiều người coi tín ngưỡng độc thần đó là tôn giáo có thể nối kết với khoa minh triết Hi-lạp, là tôn giáo loan báo một thứ Chúa mà các triết gia hay các đầu óc khai hoá có thể hiểu được một cách nào đó. Vì thế lúc đó, nhiều nhóm người được gọi là dân kính sợ Chúa đã hình thành quanh các đền thờ do-thái, họ không thể trở thành dân Do-thái được, nhưng muốn bằng mọi cách liên kết với tôn giáo này được chừng nào hay chừng nấy. Từ đó các tập thể đó bắt đầu làm quen và thân thiết với Ki-tô giáo. Và vì đối với Do-thái giáo họ chỉ được làm cảm tình viên ở vòng ngoài mà thôi, nên dần dà họ trao hẳn niềm tin vào vị Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra và đi tới với con người qua đức Ki-tô.

Bằng cách đó, có sự gặp nhau ở đây giữa một tôn giáo đã được thanh tẩy và có thể hiểu được bằng lí trí, với sức mạnh tín ngưỡng của một đức tin hoàn toàn không do con người nghĩ ra, nhưng được ban tặng và kinh nghiệm từ Thiên Chúa.

(còn tiếp nhiều kỳ).

Phạm Hồng Lam

Tr Trước | Mục Lục | Tr Sau

URL: http://danchuausa.net/luu/chuong-iii-giao-hoi-3/