Trích từ Dân Chúa

Chương III: Giáo Hội (2)

Phạm Hồng Lam

TÂM ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI

- Tâm điểm của Giáo hội, nếu tôi hiểu không lầm, không phải là Vatican hay giáo chủ, nhưng là một phụ nữ. Một trong những thành tựu lớn nhất của thần học thế kỉ 20 là tái khám phá ra mẹ Maria như là “hình ảnh cội nguồn của Giáo hội”. Đặc biệt nhờ thi sĩ Paul Claudel* mà việc tôn sùng Mẹ gần như bị quên lãng đã thật sự trổi dậy.Paul Claudel cho hay, khám phá của ông về Mẹ gắn liền với một kinh nghiệm trong một thánh lễ chiều tối Giáng sinh năm 1886 tại Paris. Ông không háo hức lắm khi dự thánh lễ trong nhà thờ đức Bà hôm đó, nhưng, lúc hát bài ca Magnificat, ông bỗng như bị chấn động bởi một tiếng nổ dữ dội. Biến cố đó giúp ông hiểu rằng tất cả những gì Maria nói đều có giá trị cho Giáo hội. Và ngược lại Giáo hội nhìn thấy qua Mẹ hình ảnh cội nguồn toàn hảo của mình. Ông cho hay, bản chất của Giáo hội được cụ thể hoá trong đức Maria, vì qua ngài ta thấy được nguyên tắc công giáo về tầm quan trọng của sự cộng tác con người vào ơn cứu độ. “Mẹ Thiên Chúa”, ông nói, “và Giáo hội thánh, đối với tôi, là một. Tôi chưa bao giờ học cách phân biệt hai thực thể đó”.

Việc đồng hoá Giáo hội với một phụ nữ bắt nguồn sâu xa nơi Cựu Ước, khi Is-ra-en tự coi mình là vị hôn thê mà Chúa muốn tin cậy và phó thác trong tình yêu đời đời. Trong tinh thần nối tiếp cuộc sống của Cựu Ước, Giáo hội đã lấy lại hình ảnh đó. Ngay Phao-lô cũng gọi Giê-ru-sa-lem là mẹ chúng ta. Với lối gọi đó, ngài khám phá ra từ truyền thống do-thái hình ảnh Giáo hội mẹ; thành phố mẹ này đã sinh ra ta, trao tặng cho ta sự sống và tự do. Và các giáo phụ, vì thế, đã lấy lại í tưởng đó, một í tưởng cũng đã xuất hiện trong sách Khải-huyền – một người nữ bận áo mặt trời – và dùng nó để trình bày bản chất rất thánh của Giáo hội. Dù các ngài lúc đó thường chẳng nghĩ gì tới Maria, nhưng trên căn bản, toàn bộ môn Maria học cũng đã bao gồm yếu tố này. Nói cách khác: Giáo hội được cụ thể hoá trong Maria. Và những gì mang í nghĩa thần học nơi Maria đều được diễn tả nơi Giáo hội. Có thể nói, cả hai hoà nhập vào nhau : Maria là Giáo hội bằng xương thịt, và Giáo hội trong tổng thể của mình là thân xác sẵn đó của Maria. Như vậy, qua biến cố trở lại trên, Claudel đã thật sự tái trực giác cái hình ảnh uyên nguyên và nhìn ra mối gắn bó khắng khít giữa Maria học và Giáo hội học.

Trong thế kỉ chúng ta, Hugo Rahner*, anh của Karl Rahner*, chuyên gia lớn về các giáo phụ, đã trình bày một cách tuyệt vời toàn bộ bản văn của các ngài, và đã chỉ ra rằng, chỗ nào các giáo phụ đề cập tới Giáo hội như một phụ nữ, chỗ ấy đồng thời xuất hiện Maria – và nhờ vậy đã tránh được việc bó hẹp môn Maria học. Các chuyên gia khác đang tiếp tục nghiên cứu điểm này. Công đồng Vatican II đã lấy lại quan điểm trên qua việc nối kết Maria học vào Giáo hội học.

Tôi nghĩ, trên thực tế, việc tái khám phá ra mối liên hệ vượt thời gian giữa Maria và Giáo hội, việc khám phá ra tính cách con người của Giáo hội trong Maria và tính cách Maria chung nơi Giáo hội, là những phát hiện lớn nhất của thần học trong thế kỉ 20.

- Có một giáo chủ ghi nhận : “Ai để tâm quan sát lịch sử Giáo hội công giáo, sẽ thấy ngay bàn tay độ trì của Mẹ đồng trinh Thiên Chúa hiện diện trong mọi biến cố quan trọng của Giáo hội. Mỗi khi đó đây lầm lạc nổi lên tấn công sự thống nhất mỏng manh của Giáo hội và đẩy nó vào cuồng phong, thì các giáo phụ chúng ta lại tin tưởng hướng về Mẹ, là người duy nhất chiến thắng mọi lầm lạc trên thế gian ; và chiến thắng do Mẹ mang tới đó đã đưa Giáo hội bước vào những thời kì tốt đẹp hơn”. Nghe tuyệt quá nhỉ.

Người ta đã thi vị hoá. Đó là lối nói của người xưa: Đức Bà chiến thắng mọi tà giáo; một công thức xuất hiện trong thời có những tranh cãi về bản tính đức Ki-tô. Thời đó, người ta chạy tới Maria để cứu nhân tính nơi đức Giê-su, nhưng mặt khác, cũng là để cứu thiên tính của Ngài, khi người ta cãi nhau về phẩm giá của Maria. Nhờ cuộc tranh luận về Maria mà mầu nhiệm đồng bản tính thiên chúa và loài người nơi đức Giê-su Ki-tô được sáng tỏ. Từ đó nẩy ra lời cầu đức Bà chiến thắng mọi tà giáo, và lời đó trong nhiều thời kì đã thực sự trở thành một câu tuyên chiến. Tôi nghĩ, ta nên nhìn đức Maria như là người ủi an, che chở, và dĩ nhiên như là cây cầu đưa ta tới Chúa Ki-tô. Mẹ không lấy đi vương trượng của đức Ki-tô hay cản ngăn ta sùng mộ Ngài. Mà trái lại, nhờ Mẹ mà ta mới hiểu được mầu nhiệm to lớn về đức Ki-tô và mới được ở gần Con ngài.

SỨ MẠNG GIÁO HỘI

- Sứ mạng của Giáo hội quá lớn và gần như vượt sức người. Có lẽ người ta khó mô tả đầy đủ được sứ mạng đó. Thánh Phao-lô có lần dùng chữ thật kêu để nói về Giáo hội, bảo đó là cột trụ và nền móng của chân lí. Ngài nói, đó là thầy dạy đức tin do Chúa cắt cử, đồng thời có nhiệm vụ canh giữ không để mất chân lí đức tin và không để sai lầm nào thấm nhập vào giáo huấn. Phải chăng Giáo hội là ông từ nghiêm khắc canh giữ đền thánh?

Điều anh nói được trích từ các thư mục vụ, mà phần lớn các nhà chú giải Kinh Thánh hiện nay bảo không phải do Phao-lô viết, nhưng ở đây ta không bàn chuyện đó. Dù sao, những lá thư đó vẫn nằm trong truyền thống phao-lô ; và, ít nhất trong trường phái Phao-lô, lối suy nghĩ đó vẫn đang được tiếp tục. Ngay trong các thư quan trọng của Phao-lô, ta thấy ngài viết rằng, Giáo hội là kẻ cưu mang sống động chân lí của Chúa Ki-tô. Giáo hội có nhiệm vụ giữ gìn chân lí đó, có thể nói là cột trụ của chân lí đó; và Giáo hội cũng sống, truyền bá chân lí đó một cách sống động và dễ hiểu, để chân lí được triển nở. Chúng ta cũng đã nghe, Giáo hội luôn được Thánh Linh hướng dẫn để tìm tới sự thật, vì thế nơi giáo huấn hai yếu tố trung thành và tiến bộ nối kết với nhau.

- (Điều đó không chắc).

Luther đã phản đối điều đó, bảo rằng, chẳng cần giáo huấn Giáo hội, chỉ có Kinh Thánh là đủ. Ông bảo, giáo huấn là kiêu ngạo, mỗi người có thể tự mình hiểu Kinh Thánh, nếu đọc một cách đúng đắn. Ngày nay ta thấy càng ngày càng rõ, là kinh sách thường mang nghĩa đôi. Lời Chúa chỉ sống động trong Giáo hội, nên phải bước vào trong đời sống Giáo hội. Như thế thì ta cũng cần một cơ quan được ủy quyền diễn giải. Cơ quan đó dĩ nhiên phải hiểu là nó không đứng trên, nhưng đứng dưới lời Chúa và phải lấy lời đó làm chuẩn.

Ngoài ra, trong lãnh vực này, hiện nay cũng đã có những cuộc trao đổi làm hoà giữa các Giáo hội. Qua đó, phía Công giáo đã phải bỏ đi một số nội dung diễn giải lời Chúa, trong khi phía Tin lành đang đưa việc diễn giải đi vào thẩm quyền của Giáo hội. Từ những nhận thức đó, hệ quả sau đây đã nẩy sinh theo thời gian: Nếu lời diễn giải của Giáo hội có giá trị bó buộc, thì Giáo hội phải có một lực đỡ, một soi sáng nào đó, để Giáo hội có thể diễn giải đúng như Chúa Thánh Linh, đấng dẫn dắt mình, muốn. Với lối nghĩ đó, cuối cùng, huấn giáo không sai lầm (bất khả ngộ) đã hình thành.

- (Điểm này hẳn cần phải giải thích thêm).

Để không bị lạm dụng và hiểu lầm, điểm này, dĩ nhiên, phải được hiểu thật đúng trong khuôn khổ giới hạn của nó. Không phải mọi lời do giáo quyền hay giáo chủ nói ra, đều không sai lầm. Nhưng chỉ những gì mà Giáo hội, sau những cuộc đấu tranh tinh thần khó khăn trong lịch sử và qua quá trình cầu nguyện suy tư lâu dài, tuyên bố đây là điều diễn giải chính thức. Và như thế, nhờ ơn soi sáng, Giáo hội vạch ra nơi đây một lằn ranh để giúp con người khỏi rơi vào lầm lạc, và đồng thời cũng để nói cho họ hay rằng, Giáo hội không phải là một dụng cụ phá hoại lời Chúa, song là người Mẹ và là chủ thể, qua đó lời Chúa được sống động, được phát biểu đúng và được diễn giải đúng. Nhưng, như đã nói, tất cả phải có điều kiện. Có nghĩa là tất cả những ai mang trách nhiệm trong Giáo hội phải phục tùng những điều kiện đó trong tinh thần trách nhiệm cao. Họ không được lấy í mình ra để quàng lên Giáo hội, nhưng phải đứng vào trong cộng đoàn đức tin chung với tinh thần phục vụ và lắng nghe lời Chúa. Họ phải để cho lời đó hướng dẫn và tẩy gội cuộc sống, có như thế họ mới có thể diễn giải lời Ngài đúng được.

Sứ mạng Giáo hội rõ ràng cũng bao gồm cả tinh thần đối kháng và nhận lỗi. Với tinh thần đó, Giáo hội có một chút gì phản kháng và quá khích và khác người. Nếu tôi không lầm, thì Giáo hội luôn chống lại mốt độc tài. Giáo chủ (Gio-an Phao-lô II) đã dùng tiếng nói tông đồ của mình để phản đối thế giới và coi đó là nhiệm vụ cao cả của mình : Hãy phản đối, ngài đã kêu gọi như thế. Chống lại quyền lực của thực tại, chống lại cái quá trớn của chủ nghĩa vật chất và chống lại sự mù loà của một thế giới vô đạo đức.

- Sứ mạng của Giáo hội, hẳn nhiên, bao gồm việc sẵn sàng phản đối và đối kháng. Ta đã thấy, trong con người luôn có khuynh hướng chống lại những lời từ trên xuống; họ muốn được thoải mái, muốn được tự quyết định cái gì họ muốn, bằng cách tự đặt ra những í hệ, tự tạo ra cho mình một mốt thời trang và đi theo mốt sống đó.

Hãy trở lại lần nữa với lời tiên tri của Si-mê-on. Ông đã nói về Chúa Ki-tô: Con trẻ này sẽ là dấu cho người ta chống. Và ta hãy nhớ lại chính lời đức Giê-su : “Tôi không đến để đem bình an, nhưng đem gươm giáo”. Câu nói đó cho thấy sứ mạng to lớn và quan trọng của Giáo hội chống lại thời thượng, quyền lực của thực tại và độc tài í hệ. Ngay thế kỉ trước, Giáo hội cũng đã phản kháng lại những nền độc tài lớn. Và ngày nay, chúng ta đau buồn thấy sự phản đối của Giáo hội quá yếu, tiếng nói phản kháng của chúng ta đã không kiên quyết và đủ lớn cho thế giới nghe. Nhưng cám ơn Chúa đã có những gương tử đạo. Trong khi giáo triều yếu đi vì tế nhị ngoại giao, thì các vị tử đạo đã trả giá cái mâu thuẫn đó bằng chính cuộc sống mình.

Hẳn nhiên, không phải phản kháng vì thích phản kháng, hay là một phản ứng suông hoặc vì cảm thấy bất lực trước viễn ảnh tương lai. Mà thái độ hay hành động đó phải luôn mở ra cho cái thiện mọi thời, cho cái mới gói gém trong mọi thời đó – cái mới đó cũng luôn mở ra những chiều kích hoàn toàn mới của lời Chúa. Lại nữa, khi hành động, ta cũng không được vì bất cứ lí do gì đẩy đức tin ra lề hay để cho nó bị lu mờ đi. Phải chống lại những gì ngược lại với Thiên Chúa, cho dù vì thế mà mình phải tự chống mình – cho đến phải can đảm chấp nhận tử đạo.

- Đức tin thường mâu thuẫn với tinh thần thời đại. Tinh thần thời đại, ngược lại, càng chống lại đức tin nhiều hơn. Chuyện đó chẳng mới lạ gì. Guardini có lần viết : “Ai sống với Giáo hội, lúc đầu thường thấy sốt ruột bực mình, vì Giáo hội luôn cứ bắt họ phải làm ngược lại những người khác”. Người tín hữu, theo ông, cảm thấy mình lạc hậu trước dư luận đương thời, mà thoạt tiên người ta luôn coi là tiến bộ hơn mình. Ông viết : “Nhưng khi miếng vải bịt mắt được gỡ ra, họ nhận ra Giáo hội luôn kéo con cái mình ra khỏi lối đi của quyền lực thời đại và giữ họ lại theo cái đang có. Thật lạ lùng, không ai có được thái độ hoài nghi và độc lập nội tâm trước “cái mà mọi người đều nói” hơn là người thật sự sống với Giáo hội”.

Vâng, những điều giáo sư ấy viết ra cũng phản ảnh cuộc đời của ông. Thời Guardini ngồi trên ghế đại học là lúc gia sản chủ nghĩa tự do còn rất mạnh, ngay cả trong thần học công giáo. Giáo sư Koch, một trong những thầy dạy ông ở đại học Tübingen, bị ảnh hưởng chủ nghĩa đó khá nặng. Dĩ nhiên anh sinh viên trẻ Guardini lúc đó cũng theo thầy. Chuyện các sinh viên liên đới với một ông thầy ăn nói mạnh bạo, tự do, bàn về những điều mới lạ vượt khỏi vòng vây truyền thống và bốp chát lại với Rô-ma, là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, trong thời gian học, cũng là thời gian ông rơi vào mối hoài nghi lớn về đức tin, rốt cuộc ông đã nhận ra được bộ mặt đích thực của Giáo hội qua phụng vụ. Ông cho hay, dù vẫn mê theo thầy, nhưng ông đã chọn cho mình con đường chống lại tự do, bởi vì suy cho cùng, theo ông, chỉ có Giáo hội là thực lực duy nhất dám phê bình lại chủ nghĩa này. Càng bước theo Giáo hội, càng đi sâu vào trong nó, càng tín thác vào đức tin Giáo hội – sự tín thác này bị coi là thái độ trẻ con, thiếu độc lập -, ông càng nhận ra mình có được sự độc lập lớn hơn trước tinh thần thời đại, càng có được đầu óc tỉnh táo, hơn là đứng ở bất cứ từ nơi đâu khác. Guardini là một trong những kẻ tiên phong phá bỏ khuynh hướng tự do trong thần học. Nhờ đó, họ đã đánh thức dậy, cho cả một giai đoạn khoảng từ 1920 tới 1960, niềm vui lớn nơi Giáo hội, niềm vui cùng nghĩ, cùng tin với Giáo hội. Cá nhân Guardini đã kinh nghiệm điều đó như thể miếng vải che mắt được lột đi, và ông bỗng thấy rằng : thì ra vấn đề hoàn toàn khác, không như thiên hạ nghĩ. Đó không phải là thái độ thiếu độc lập trẻ con, mà là can đảm phản đối, và đó là sự tự do đối kháng trước dư luận kìm toả của thời thế Cái tự do đó đồng thời cung cấp cho ta một nền tảng chắc chắn, nền tảng đó không do Giáo hội tự nghĩ ra.

- Và rồi những chuyện song song khác cứ thế lạ lùng mở ra…

Vâng.

THIÊN CHÚA VÀ GIÁO HỘI

- Chẳng dễ gì thấy được cái can đảm phản kháng đó của Giáo hội. Nhiều cộng đoàn công giáo xem ra mệt mỏi quá rồi. Thiếu trí tuệ và can đảm để dám nghĩ vượt ra ngoài những dư luận và chủ nghĩa tân tiến thường ngày, để còn muốn bảo vệ nền tảng vững chắc của đức tin. Nhiều ki-tô hữu theo thời muốn tốt nhất trở thành một công ti dịch vụ, qua đó dùng các cuộc thăm dò dư luận để đáp ứng nhu cầu thành viên mình. Ngay cả các giám mục cũng cho ta cảm giác là Chúa Thánh Linh đã bỏ họ từ lâu rồi.

Có thể nói được rằng : Phải chăng thời điểm của Giáo hội đã thật sự chấm dứt ? Và biết đâu, có thể Chúa đã bỏ Giáo hội, Ngài chán ngấy Giáo hội và đã ẩn mặt rút lui, ít ra trong một thời gian ?

Có những mệt mỏi của Giáo hội, và chắc chắn có sự kiện “trụ đèn chỗ nào đó đã bị khuất đi”, như trong Khải-huyền nói. Chỉ cần nghĩ tới thế kỉ 16. Sách vở hiện có về thời đó cho thấy Giáo hội đã chạy theo thời như thế nào, giám mục đã yếu tin như thế nào. Họ đã trở thành một thành phần của hệ thống, chẳng còn là chứng nhân sống động của đức tin, chẳng còn khả năng tông đồ và tử đạo. Họ nhìn trước nhìn sau tìm lối thoát tốt nhất cho mình, và chỉ nỗ lực làm sao đừng để những điều xấu hơn xẩy đến. Giáo hội thời đó như ngủ quên, gần như tiêu vong.

Tình trạng như thế luôn có thể xẩy ra. Chúa Thánh Linh làm ta xấu hổ, là vì cứ mỗi lần như thế, đâu đó bỗng nhiên lại có làn gió canh tân cần thiết hoàn toàn từ bên ngoài thổi vào. Những lực canh tân thời đó là Tê-rê-xa ở Avila và Gio-an thánh giá, là I-nhã ở Loyola và Phi-lip Nê-ri và những người khác như thế. Thoạt tiên, giáo quyền ngỡ ngàng và sợ hãi trước những biến chuyển đó, nhưng rồi cuối cùng chúng được nhìn nhận như là những bước đổi mới thật sự.

Rõ ràng Giáo hội có mệt mỏi. Có thể Giáo hội trong cả một vùng văn hoá nào đó mỏi mệt và ngã đổ. Qua bảy lá thư gởi bảy Giáo hội, sách Khải-huyền điển hình cảnh cáo về tương lai : Coi chừng, nếu không thì tôi sẽ xô ngã cột đèn. Quả thật, sau những cơn bão tố Islam, không những Giáo hội ở Tiểu Á, một thời là con cưng của Giáo hội hoàn vũ, mà cả Giáo hội ở Phi châu, đã biến mất. Dĩ nhiên, việc suy sụp của các Giáo hội thời đó không đơn giản chỉ do mệt mỏi, nhưng bạo lực của kẻ xâm chiếm cũng là một yếu tố phải kể đến, bạo lực đó đã cày nát nhiều lớp dân chúng. Nhưng dù sao, chuyện như thế có thể xẩy ra.

Lời hứa của đức Ki-tô : “Ta sẽ ở lại với anh em mọi ngày cho đến tận thế” không có nghĩa là từng giáo phận đã có được bảo chứng tồn tại mãi mãi. Nhưng lời đó có nghĩa là, cho tới ngày Ngài lại đến, Giáo hội chân thực sẽ là nơi Ngài ngự, là cơ thể, là thịt, là vườn nho của Ngài.

- Có lẽ Chúa không để cho Giáo hội hoàn toàn sụp đổ. Nhưng có liều lĩnh lắm không, nếu như giờ đây ta muốn bắt đầu làm lại một cái gì hoàn toàn mới? Như vậy, sẽ có một Cựu Ước, một Trung ước và một Tân Ước. Người ta vẫn nói, cái gì có ba thì tốt.

Điều đó Gio-a-kim ở Fiore* trong thế kỉ 12 cũng đã nghĩ tới. Ông cho rằng lịch sử phải phù hợp với ba thời của ba ngôi Thiên Chúa. Thời Cha, thời của Cựu Ước, là thời của lề luật nghiêm nhặt. Thời Con là thời của Giáo hội đã giảm nhẹ đi đôi chút, để bước sang thời Thánh Thần, là thời của một Giáo hội tinh thần hoàn toàn mới. Giáo hội tinh thần sẽ làm hoà lại Đông với Tây, Do-thái giáo với Ki-tô giáo, sẽ mang lại tự do đích thực của lề luật. Lí thuyết đó đã tạo nên những cơn sóng lịch sử lớn. Thoạt tiên, một phần dòng Phan-sinh coi mình là Giáo hội tinh thần mới đó. Tư tưởng kia sau đó đi vào thế tục với sản phẩm “đệ tam quốc-xã” của Hitler.

Henri de Lubac đã viết hai tập sách dày về những hậu quả do tư tưởng Gio-a-kim gây ra. Trong đó, tác giả cho thấy tư tưởng đó đã tạo ra những tranh cãi thần học lớn như thế nào, khi nó khiến một phần dòng Phan-sinh tự coi mình là Giáo hội thánh chân thực và đã chống lại một giáo triều đã bị tục hoá. Trong sách, tác giả cũng phân tích cho thấy lịch sử đã không chia thành ba thời kì như Gio-a-kim nghĩ. Toàn bộ lịch sử là thời gian của một Thiên Chúa ba ngôi. Giáo hội (sống chân thực với sứ mạng mình) là Lời cuối cùng của Thiên Chúa trong lịch sử, bởi vì đức Ki-tô là Lời sau hết của Ngài, là toàn bộ Lời của Ngài. Giáo hội có thể triển nở ra muôn mặt, nhưng nó không thể trở thành một cái gì khác. Nó phải thật sự phản ảnh lời hứa : Ta ở với anh em, bên anh em, với Giáo hội này cho tới tận thế. Còn mọi thứ khác đều là tự chế, là sản phẩm của con người, chúng đến rồi đi.

(còn tiếp nhiều kỳ)

Chúa Kitô nói: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Bản tường thuật lời tuyên bố song song trong Thánh Mác-cô, Người nói tiếp: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để năm giữ truyền thống của các ông” (Mc 7,9).

Kitô-giáo trên thế giới đầy dẫy truyền thống. Một trong những truyền thống rộng lớn nhất là cái nhìn truyền thống về Giáo Hội thời Tân Ước. Đa số các thừa tác viên, các nhà thần học và những kẻ cuồng tín đều định nghĩa một cách đặc trưng Giáo Hội theo cách nầy: “Tất cả những ai chân thành tin nơi Chúa Giêsu Kitô như là Đâng Cứu Tinh của họ, làm thành Giáo Hội đích thực”. Điều nầy thường được kèm theo với tuyên bố quen thuộc nầy: “Có nhiều con đường dẫn tới thiên đàng” hoặc “có nhiều nan hoa của chiếc bánh xe ơn cứu rỗi”. Mặc dù Kinh Thánh không dạy rằng thiên đàng là phần thưởng cho người được cứu thoát, nhưng hàm ý rõ ràng của những điều nầy là người ta có thể tin vào những gì họ muốn, hoặc là một thành phần của bất kỳ nhóm nào do họ chọn lựa và bao lâu họ còn là Kitô-hữu, thì họ vẫn còn nhận được bất kỳ điều gì là ơn cứu rỗi. Trong khi người ta có thể chân thành tin vào những ý tưởng truyền thống nầy, thì họ lại bị sai lầm một cách chân thành. (Trích Đâu Rồi Giáo Hội Thật Của Chúa, David C. Pack)

Phạm Hồng Lam

Tr Trước | Mục Lục | Tr Sau

URL: http://danchuausa.net/luu/chuong-iii-giao-hoi-2/