Trích từ Dân Chúa

Chương II: Đức Giê-Su Ki-Tô (2)

Phạm Hồng Lam

(tiếp theo... Thiên Chúa và Trần Thế, ĐHY Joseph Ratzinger trao đổi với Peter Seewald; Phạm Hồng-Lam chuyển ngữ)

THIÊN CHÚA TỰ SỬA SAI ?

- Các lề luật cũ, từ nghi thức tế lễ cho tới cả chuyện khốn nạn “Mắt đền mắt, răng đền răng” cũng được bãi bỏ sau khi đức Ki-tô xuất hiện. Như vậy, có thể nói được rằng Thiên Chúa đã phải tự sửa sai?

Tôi muốn nói lại chuyện lịch sử. “Mắt đền mắt, răng đền răng” nghe ra kinh khủng thật, nhưng trước hết có thể nói đó là một nguyên tắc điều hoà và hợp lí hoá việc trả thù, không để nó vượt ra khỏi khuôn khổ của hành vi tương ứng. Xem thế thì đó là một tiến bộ rồi, so với luật pháp đương thời. Ở đây phải nói thêm, nếu không có tình yêu thì cái tiến bộ về í thức pháp luật đó cũng chẳng giải quyết được gì, chỉ có tình yêu mới bẻ gãy vòng trả thù luẩn quẩn và mới tạo ra được một thực tại mới.

Trong cuộc trao đổi này chúng ta đã đề cập tới câu: “Ta đến không phải để xoá bỏ luật, nhưng để kiện toàn nó”. Chúng ta đã bàn tới câu đó một cách cụ thể trong câu chuyện về của lễ Đền thờ. Của lễ luôn chỉ là một vật thay thế. Và giờ đây, khi nhân vật mang của lễ đích thật xuất hiện, và qua đó giúp ta có thể hi sinh cho Chúa, thì toàn bộ í nghĩa về việc tế lễ kia đã hoàn tất trong Ngài. Và chính Ngài là đền thờ sống động thay cho mọi thứ đền thờ. Như vậy, Ngài đến không phải để xoá bỏ cái gì, nhưng là để đưa nó đạt tới đích.

Trong í nghĩa đó, của lễ dâng cho Đền thờ đã được hiện tại hoá trong Mình Thánh, một hình thái mà trước đó mới chỉ có được những hình ảnh xa gần mà thôi. Như vậy, có thể nói, Thiên Chúa đã không tự sửa sai. Nhưng trái lại, Ngài giúp ta thấy được động lực nội tại và hướng tới của con đường mà Ngài thoạt tiên đã mở cho ta, nhưng ta chưa thể đi tới nổi. Í nghĩa thực sự của con đường đó giờ đây đã được kiện toàn và có được đúng chỗ của nó.

- Kinh Thánh nói về một “Is-ra-en mới, một dân thiên chúa mà Ngươi đã gọi”. Nghĩa là giờ đây, với sự xuất hiện của đấng Cứu tinh, những người đi theo Ngài, các ki-tô hữu, trở thành dân mới, dân được Thiên Chúa chọn riêng?

Vâng, có thể nói được như thế. Có thể nói đó là Is-ra-en mở rộng. Thánh Phao-lô nói rõ, con cái Ab-ra-ham không phải chỉ là những người máu mủ, nhưng là tất cả những ai có chung đức tin với ông. Như vậy, vòng máu mủ của Is-ra-en được nới rộng ra bởi cộng đoàn đức Ki-tô. Nhờ vào một quyết định nền tảng (nhất là vào một quà tặng) mà cộng đoàn này đã trở thành một dân, khiến cho lời hứa giờ đây trở thành phổ quát.

Chữ được chọn nghe không ổn lắm, vì nó gợi lên sự hạn chế, cho rằng ta đây là kẻ tốt hơn. Theo nghĩa ban đầu của Kinh Thánh, chữ này muốn nói tới việc Chúa chọn một dân tộc, để giao cho họ một công tác, và để họ thông báo tới những dân khác một điều gì. Như vậy, được chọn luôn có nghĩa là chọn cho một việc gì đó. Về một khía cạnh nào đó, có thể nói, kẻ được chọn phải mang gánh nặng, vì phải nhận trách nhiệm cho kẻ khác.

Trong í nghĩa đó, í niệm được chọn và í niệm Is-ra-en bao gồm tất cả những ai nhờ qua đức Ki-tô trở thành con cháu của Ab-ra-ham, trở nên con cái của Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, họ không phải được chọn để sống cho người khác, hầu có được hộ chiếu đặc biệt bước qua cửa thiên đàng, nhưng là để tham dự vào việc phục vụ đức Ki-tô, vào công tác của Is-ra-en đối với lịch sử.

9. ÁNH SÁNG

- Quái lạ : Thiên Chúa toàn năng vô cùng lại chọn một chốn hèn kém nhất ở trần gian, một chuồng súc vật sơ sài ở Bê-lem, để sinh ra. Và lập luận của Giáo hội : Chỉ vì điều đó quá khó tin và quá mâu thuẫn nên nó phải là chuyện có thật.

Lối lập luận đó không đủ. Nhưng thật ra, việc chọn cái bé nhỏ là nét đặc thù trong lịch sử Thiên Chúa với con người. Cái đặc thù đó ta thấy trước hết qua việc Ngài chọn trái đất, một hại bụi trong vũ trụ, làm nơi hành động; trong đó dân tộc yếu đuối như Is-ra-en lại được chọn để mang lấy lịch sử của Ngài ; rồi Na-da-ret, một chốn hoàn toàn không ai biết đến, trở thành quê hương Ngài ; và rồi cuối cùng Con Thiên Chúa lại sinh ra ngoài làng Bê-lem, trong một chuồng súc vật. Tất cả như một sợi chỉ đỏ.

Chúa dùng đơn vị đong đo duy nhất của Ngài là tình yêu để đối lại thói kiêu căng của con người. Kiêu căng chính là hạt nhân, là nội dung chính của mọi tội lỗi, nghĩa là của cái tự-coi - mình- muốn- bằng- Thiên Chúa. Tình yêu, trái lại không phải là tự cao, mà tự hạ. Tình yêu cho thấy chính lúc hạ mình là lúc ta vươn lên. Chính khi ta hạ mình, khi ta trở nên đơn giản, cúi xuống với kẻ đói rách, nghèo hèn, khi đó ta mới thật lên cao. Chúa trở nên bé nhỏ, để đưa con người dương dương tự đắc trở về lại đúng chỗ của nó. Xem thế thì quy luật của sự bé nhỏ là khuôn thước nền tảng của hành động Thiên Chúa. Quy luật đó giúp ta nhận ra bản chất Thiên Chúa, và cả chính bản chất của ta. Như vậy, lập luận trên tự nó đã chứa đựng một luận lí cao và trở thành chỉ dấu cho sự thật.

- Cảnh tượng giáng sinh đã trở thành nổi tiếng thế giới, và Friedrich Händel đã biến nó thành bất tử qua bản nhạc đại hợp xướng “Messias”. Một thiên thần, bao bọc bởi hào quang thiên chúa, xuất hiện giữa đêm đen báo tin cho những người canh giữ súc vật : “Các bạn đừng sợ ! Tôi báo cho các bạn một tin vui lớn”. Và trong khi thiên thần đang nói, từng đoàn thần linh thiên quốc quần tụ quanh ngài đồng xướng lên lời ca vang vọng trần gian : “Vinh-danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người lòng ngay”.

Đó quả là một trong những cảnh đánh động con tim nhất của Kinh Thánh. Sự đánh động đó đã có từ thời Giáo hội sơ khai rồi, cứ nhìn vào nghệ thuật thời đó ta có thể thấy điều này. Cảnh tượng đó đi vào lòng người, nhưng sứ điệp của nó còn vươn xa hơn những gì thú vị và đáng yêu.

Cũng lại những người bình dân mộc mạc là những kẻ đầu tiên được gọi tới máng cỏ. Hê-rô-đê không biết chuyện xẩy ra. Cả các nhà thông thái thoạt tiên cũng không biết. Tin vui đã tới với những người chăn súc vật, những người đang trông chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với họ. Họ là những người sẵn sàng và biết mở lòng đón nhận. Những người này, cùng với Maria và Giu-se, với Si-me-on và An-na, với E-li-sa-bet và Za-ka-ria-a, là đại biểu của giới nghèo hèn trong Is-ra-en – và như thế là toàn bộ Dân Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy trong Thánh Vịnh chữ kẻ nghèo và kẻ lòng nhân là từ chỉ bao trùm thành phần tín hữu ở giữa trong dân Is-ra-en. Cũng như khi đức Ki-tô khen các trẻ nhỏ là Ngài khen những tâm hồn đơn sơ biết nhìn và lắng nghe tin vui của thiên thần.

Nhóm người thứ hai tới Bê-lem, như Tin Mừng Mat-thêu cho hay, là những nhà thông thái từ phương đông. Rất có í nghĩa. Kẻ đơn sơ đi trước, nhưng các nhà trí thức cũng không bị loại ra ngoài. Nơi họ có một sự khôn ngoan đích thực, khiến họ mở lòng mình ra cho đức Ki-tô. Và còn một điều quan trọng nữa. Những nhà thông thái tới máng cỏ là người ngoại. Đây có thể nói là những hình ảnh nói lên chuyển động của Giáo hội, của người ngoại.

THỜI ĐIỂM QUAN TRỌNG NHẤT CỦA LỊCH SỬ

- Giám mục người Đức Rudolf Graber cho rằng biến cố kia đã “vượt xa vô cùng biến cố tạo dựng vũ trụ”. Chưa bao giờ có một biến cố lớn như thế xẩy ra, và cũng không bao giờ sẽ xẩy ra một biến cố mang tầm vóc như thế : “Bởi vì việc con một của Thiên Chúa, ngôi hai Thiên Chúa, sẵn sàng làm người trong một địa cầu tí hon này là chuyện vượt trên tất cả mọi cái có thể tưởng tượng”.

Vâng, đó là một bài học rất quan trọng, để ta hiểu được đúng í niệm về cái lớn và cái bé. Nhìn trên khía cạnh vật chất, việc tạo dựng vũ trụ là một biến cố lớn lao vô cùng. Bên cạnh đó, biến cố nhỏ nhoi xẩy ra ở Bê-lem, mà các sử gia thoạt tiên đã bỏ quên, quả là chuyện không đáng bàn tới.

Xét về lượng thì hai biến cố trên khác xa nhau. Tuy nhiên, nếu ta thấy được chỉ một trái tim người mà thôi cũng là một độ lớn mới trước toàn cảnh của vũ trụ, như Pascal nói, thì lúc đó ta sẽ hiểu được việc Thiên Chúa làm người, việc đấng Tạo dựng, Lời muôn đời (Logos) chấp nhận bước vào thân phận làm người và tự buộc mình vào thân phận đó, cũng là một độ lớn khác hẳn. Thiên Chúa xuống trần và trở thành người. Đứng trước chiều kích này, cái độ lớn xem ra vô cùng của thế giới vật chất cũng trở thành nhỏ.

- Biến cố đức Giê-su sinh ra đã trở thành huyền thoại lớn nhất cho mọi thời từ hai ngàn năm nay. Ngày nay, không ai mà không biết đến đêm đó. Không đâu trong Giáo hội niềm tin thể hiện tràn bờ như trong biến cố này. Giáng sinh có một lượng biểu tượng, giá trị, đạo đức và u sầu, nghĩa là một lượng về thực thể con người, không gì sánh nổi. Đôi lúc tôi nghĩ, chúng ta biết nhiều về giáng sinh thật, nhưng hẳn giáng sinh biết chúng ta nhiều hơn nhiều.

Có lẽ, một lần nữa, ta phải thống nhất với nhau về nghĩa chữ “huyền thoại”. Ngày nay, chữ này được hiểu theo nghĩa tích cực, nó nói lên một thứ viễn kiến về những thực tại vượt khỏi giác quan con người, như vậy nó chứa đựng một chân lí cao hơn cái thuần thực tại đang có. Nhưng, cho dù mang nghĩa tích cực đó, “huyền thoại” chống lại lịch sử. Nó là viễn kiến, chứ không phải sự kiện thực tế. Việc đức Ki-tô giáng trần, trái lại, là một biến cố lịch sử, một cái gì đã diễn ra thật và đã trở thành biến cố lịch sử. Việc gắn liền với lịch sử thật đó là một nét đặc thù của lịch sử ki-tô giáo.

Quả thật lạ lùng, cái đêm trong chuồng súc vật, trong hang đá đó, thoạt tiên được các mục đồng để í đến khi nghe thiên thần loan tin, giờ đây đã trở thành một dấu chỉ vượt ra ngoài thế giới ki-tô giáo, hầu như chẳng còn ai mà không biết đến. Nhưng ta cũng phải nói thêm, song song với việc phổ quát hoá đó cũng có một tiến trình tầm thường hoá ghê sợ xẩy ra.

Ngày nay, khuynh hướng muốn đẩy Ki-tô giáo ra khỏi lễ giáng sinh ngày càng mạnh, nó giống như một hoả tiễn, sau khi lên được độ cao nhất định, liền tách khỏi phần dưới của nó. Ở Mĩ châu, với đà thương mại hoá và tình cảm hoá, lễ giáng sinh trở thành nơi trưng bày cho các cơ sở thương mại lớn. Trước đây, họ trang hoàng giáng sinh với hang đá, nay với những cảnh huyền thoại, nào là với nai, hươu và các ông già Nô-en, từ đó biến cái ki-tô giáo ra thành cái huyền thoại thật. Dĩ nhiên, vẫn còn cái dư âm chói sáng đánh động con người, khi họ nhận biết Thiên Chúa đã trở thành người. Nhưng đó chỉ là nỗ lực tìm cách giữ lại vẻ đẹp và cái rung động, còn cái í nghĩa cao sâu hơn nằm trong đó thì người ta lại bỏ đi.

- Giáng sinh cho ta thấy, bên cạnh tất cả những suy tưởng và tình cảm lớn, cả những điều hoàn toàn mâu thuẫn, những điều dối trá trong thế giới – và cả những hoài nghi lẫn không tin của ta.

Người ta đã đem quá nhiều tiếng nói của con tim, quá nhiều yếu tố giá trị lớn và quan trọng vào trong biến cố giáng sinh, khiến thoạt nhìn vào, ta có thể thành tâm nói được, là nếu lột hết những thứ đó đi, thì biến cố đích thực kia chẳng còn lại gì (làm vậy là cướp đi nội dung cao cả của giáng sinh, biến nó một cách nào đó trở thành trống rỗng). Nhưng cũng chẳng sao, biết đâu những điều thêm thắt quan trọng và dễ hiểu kia, dù chúng vượt ra khỏi vòng Ki-tô giáo, có thể đưa người ta tìm lại được đức tin. Bí ẩn của đứa trẻ, của sự giản dị, của lòng khiêm nhu – đó là tất cả những gì toát ra từ biến cố giáng sinh. Và ta cũng rất cần đưa vào những bài học mang tính con người đó, để qua đó thấy được khía cạnh nhân tính của Thiên Chúa.

Phong tục tặng quà thật ra bắt nguồn từ một suy nghĩ lớn. Đứa trẻ là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, vì vậy giáng sinh có thể là ngày để người ta trao quà cho nhau. Nhưng nếu việc tặng quà trở thành những chiến dịch thương mại bó buộc, thì việc trao tặng mất í nghĩa. Và rồi, đúng như câu của đức Ki-tô nói với các môn đệ : Đừng làm như người ngoại đạo, họ mời người khác, vì họ cũng muốn được mời lại. Nếu chỉ còn là một cuộc trao đổi hàng hoá thuần tuý, thì giáng sinh đã bị khống chế bởi tư dục, nó trở thành một phương tiện cho tính ích kỉ vô đáy và cho lòng hám của lẫn hám quyền – mà thật ra sứ điệp giáng sinh hoàn toàn trái ngược lại. Đem giáng sinh trở về lại nội dung đơn giản của nó, đó có lẽ là một nhiệm vụ lớn của chúng ta.

ÁNH SÁNG TRẦN GIAN

- Đức Ki-tô không phải là người được soi sáng, nhưng chính Ngài là ánh sáng. Ngài không chỉ là đường, mà còn muốn mình là đích tới nữa. Hồng i có lần bảo, biến cố ở Bê-lem “là bước đột phá quyết định của lịch sử thế giới đưa tới việc kết hợp con người với Thiên Chúa”.

Thiên Chúa đã thật sự làm người, đó là một biến cố vĩ đại. Ngài không phải chỉ mượn thân xác con người để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó trong một thời điểm của lịch sử - nhưng đã là người sống trong lịch sử, và cuối cùng đã giang hai tay trên thập giá, để mở ra không gian cho chúng ta có thể bước vào.

Nếu giờ đây Con Người - Thiên Chúa này, như Kinh Thánh nói, muốn đưa tất cả chúng ta vào trong Ngài, muốn kéo chúng ta vào làm một thân xác duy nhất sống động, như hai người nam và nữ trở thành một xương thịt như ta đọc thấy trong Kinh Thánh, thì ta sẽ thấy đây không phải là một biến cố đơn lẻ, nó rồi sẽ biến đi như nó đã xuất hiện. Không, đây là một đột phá, một khởi đầu, mà đức Ki-tô qua Thánh Thể, qua các bí tích và phép rửa muốn kéo ta vào trong đó. Trong í nghĩa đó, ở đây thật sự đã có một hoà tan giữa Thiên Chúa và con người, giữa Tạo hoá với tạo vật, đó là một cái gì vượt trên mọi quy luật tiến hoá. Đây không còn là một bước tiến của tiến hoá, phát sinh từ lực thiên nhiên, nhưng là một đột phá tung cửa, là hành động yêu thương của một con người, mở ra từ giây phút đó một không gian mới và một khả thể mới cho nhân quần.

- Ngài có lần nói, đức Giê-su là “con người kiểu mẫu, con người của tương lai, qua Ngài ta thấy được khả năng hoàn thiện bản thân ta trong tương lai”. Phải chăng điều này có nghĩa là về lâu về dài chúng ta sẽ trở nên toàn hảo được giống như đức Giê-su Ki-tô ?

Trên thực tế, nhờ đức Giê-su Ki-tô, ta đang vươn tới con người mới. Ngài là mẫu gương cho bản thân ta nhắm tới.

Tôi không muốn nói rằng, con người sẽ chỉ tiến lên giống Ngài về các khả năng bên ngoài mà thôi. Nhưng khung hình nội tâm của Ngài, và cuối cùng là sự hi sinh tự hiến trên thập giá của Ngài, mới là khuôn thước kiểu mẫu cho nhân loại tương lai. Không chỉ có việc đi theo Ngài hay bước vào con đường của Ngài. Mà tâm ta còn phải tự đồng hoá với Ngài, như Ngài đã tự đồng hoá với ta. Tôi nghĩ, đó mới thật là đích điểm đi tới của con người.

Nhìn vào những tấm gương lớn theo Ngài trải dài trong nhiều thế kỉ, ta mới nhận ra được những gì ẩn chứa trong con người đức Giê-su Ki-tô. Đây không phải là ta thổi phồng lên một khuôn mẫu lí tưởng, nhưng qua họ ta thấy được tất cả những khả thể làm người. Một Thérèse ở Lisieux, một thánh Don Bosco, một Edith Stein*, một tông đồ Phao-lô hay một Tô-ma ở Aquino, các ngài đã học đức Ki-tô để trở thành người. Tất cả các ngài đã trở nên thật giống đức Ki-tô, nhưng mỗi người trong họ vẫn có một mẫu sống riêng.

- Trong một bài giảng, có lần ngài giải thích, các ngọn nến mùa vọng nhắc nhở các em về những ngàn năm của lịch sử nhân loại trước đức Ki-tô, những ngàn năm của tăm tối và chưa được cứu rỗi. Và ki-tô hữu đã đặt cho thời gian sau khi Chúa sinh ra một cái tên thật đẹp : “anni salutis reparatae”, những năm của ơn cứu độ được tái lập.

Nếu ta quan niệm thời gian cứu độ một cách máy móc, xem đó như là một cái gì đã được thiết lập chắc chắn, cứ việc vào đó nhặt ơn cứu độ mà xài, thì điều đó chắc chắn không đúng. Ta vẫn thấy thực tế luôn phản lại quan niệm trên. Chẳng hạn, chưa bao giờ có những cuộc chiến man rợ và sắt máu như trong thế kỉ ta đang sống. Nó xấu xa hơn mọi thời gian trước đó, vì ta không có được những phương cách để kiểm soát sự dữ một cách tinh vi, hữu hiệu và hợp lí.

Ơn cứu độ đã được trao tặng cho ta không phải là một cái gì máy móc và bên ngoài. Nó được tín thác vào tự do, và như thế cũng được đặt vào sự mỏng dòn của tự do và vào bản chất dễ sa ngã của con người. Ơn cứu độ luôn khởi sự một cách mới mẻ nơi mỗi người, chứ nó không đơn giản đã có sẵn đó. Nó không do từ bên ngoài hay do quyền lực mà có, nhưng chỉ bước vào khi tự do của ta mở cửa. Nhưng trên hết và trong mọi chuyện vẫn là Chúa, Ngài đi tới với ta và cho ta hi vọng, hi vọng này mạnh hơn mọi phá hoại và nó giúp con người trở nên hoàn thiện.

(còn tiếp nhiều kỳ).

Phạm Hồng Lam

Tr Trước | Mục Lục | Tr Sau

URL: http://danchuausa.net/luu/chuong-ii-duc-giesu-kito-2/