Trích từ Dân Chúa

Chương I: Thiên Chúa (4)

Phạm Hồng Lam

(tiếp theo... Thiên Chúa và Trần Thế, ĐHY Joseph Ratzinger trao đổi với Peter Seewald; Phạm Hồng-Lam chuyển ngữ)

THIÊN CHÚA Ở ĐÂU?

- Làm sao gặp Chúa, và tìm Ngài ở đâu? Có một câu chuyện ngắn: Ngày nọ bà mẹ dẫn đứa con trai tới gặp giáo trưởng (do-thái). Thầy hỏi cậu bé : “Nếu cháu trả lời được Chúa ở đâu thì thầy cho cháu một đồng tiền”. Cậu chẳng phải suy nghĩ lâu, nói ngay: “Và con sẽ cho thầy hai đồng, nếu thầy trả lời được Ngài không ở những nơi nào”. Sách Khôn ngoan viết, Thiên Chúa “để cho những người không thử thách Ngài gặp Ngài, và Ngài tỏ mình ra cho những ai không ngờ vực Ngài”. Nhưng Chúa thật sự ở đâu ?

Ta bắt đầu với sách Khôn ngoan. Tôi nghĩ, lời “Chúa không để cho những ai thử thách Ngài có thể gặp Ngài” mang nghĩa rất thời sự. Lời đó có nghĩa, là những ai muốn đem Ngài lên bàn thí nghiệm thì sẽ không gặp được Ngài. Trong thế giới do-thái xưa và cả mãi đến ngày nay, người ta đã biết rất rõ chân lí đó rồi. Nếu ta muốn thử thách Ngài, bằng cách hỏi Ngài có ở đó hay ở kia không, và muốn làm những điều mà ta nghĩ là Ngài sẽ phản ứng, nếu ta muốn đưa Ngài lên bàn thí nghiệm, thì đó là lúc ta bước vào một hướng chắc chắn sẽ không gặp được Ngài. Chúa không thể thử nghiệm. Ngài không phải là vật ta có thể cầm trong tay.

- Một người bạn của tôi nói: Chính tôi đã chẳng thấy gì trong một lần bước vào nhà thờ ngày chủ nhật. Tôi chỉ thấy hoàn toàn không có gì cả.

Chúa không phải là cái gì có thể áp đặt, Ngài chẳng phải là kẻ một lúc nào đó sẽ la lên: “Này, Ta đây này”. Sẽ gặp được Ngài, khi ta xem Ngài là Chúa, chứ không phải khi ta biến Ngài thành tiêu chuẩn đúng sai của lối thí nghiệm tân tiến và tiêu chuẩn để bám giữ sự sống. Và, xem Ngài như là Chúa, có nghĩa là ta có một thái độ hoàn toàn khác đối với Ngài.

Với vật chất, ta có thể khảo nghiệm và áp đặt chúng, vì chúng là những gì thấp hơn ta. Nhưng ta không thể hiểu một con người, nếu ta cũng dùng lối đó để đối xử với họ. Trái lại, ta chỉ có thể hiểu họ được đôi chút, khi ta bắt đầu đi vào tâm họ với một thứ thiện cảm nào đó.

Với Chúa, cũng thế. Ta có thể tìm Ngài, khi ta gạt bỏ thói ngự trị ra khỏi đầu óc ta. Thay vào đó, khoác vào mình tinh thần sẵn sàng mở lòng mình ra, sẵn sàng tìm kiếm. Tôi phải sẵn sàng chờ đợi trong khiêm tốn để đón nhận điều Ngài muốn, chứ không phải để có được điều tôi muốn.

- Nhưng Chúa thật sự ở đâu ?

Ngài chẳng ở chỗ nào xác định cả, như đã hàm í trong câu chuyện trên rất hay của anh. Nói một cách tích cực : Không có chỗ nào cho Ngài cả, vì Ngài ở trong mọi sự. Tiêu cực mà nói thì : Ngài chắc chắn không hiện diện ở nơi nào có tội lỗi. Ngài không có mặt khi phủ định nâng cái không lên thành quyền lực.

Chúa ở khắp mọi nơi. Và có nhiều cấp độ khác nhau đưa ta đến gần Ngài, vì mỗi cấp sống cao hơn lại đưa ta tới gần Ngài hơn. Nhưng ở đâu mở ra tình yêu và trí hiểu, ở đó có một cách mới để gần Ngài, ở đó đạt tới một hình thức gần Ngài mới.

Như vậy, ở đâu có lòng tin, hi vọng và tình yêu, ở đó có Chúa, bởi vì những thứ này, khác với tội lỗi, là không gian đưa ta vào những chiều kích của Chúa. Như vậy, ở đâu có thiện hảo, ở đó có Chúa hiện diện, hiện diện một cách đặc biệt, vượt lên trên mọi hiện hữu và hiện tại thường tình. Ta gặp Ngài trong sâu thẳm, khi ta tới gần những chiều kích tương ứng nhiều nhất với bản chất nội tại của Ngài, đó là chiều kích của sự thật, của tình yêu, của sự thiện.

- “Gặp Ngài trong sâu thẳm” phải chăng có nghĩa là Chúa không lơ lửng đâu đó ngoài vũ trụ, nhưng Ngài ở trong chính ta, ở trong mỗi người chúng ta ?

Đúng, thánh Phao-lô cũng đã nói điều đó với dân Athen nơi toà án thượng thẩm. Ngài đã trích dẫn câu của một thi sĩ Hi-lạp: Chúng ta chuyển động trong Chúa, chúng ta sống và hiện hữu trong Ngài.

Chúng ta chuyển động và hiện hữu trong bầu khí của Chúa là đấng tạo hoá. Điều này, trước hết và nhìn chung, đã được thể hiện trong đời sống sinh lí của ta. Và điều đó càng đúng, khi ta càng tiến sâu vào cái đặc thù của Chúa.Ta có thể diễn tả điều đó như thế này : Ở đâu một người làm điều tốt cho tha nhân, ở đó đặc biệt có sự gần gũi Chúa. Ở đâu con người mở lòng mình ra với Chúa trong lời nguyện, ở đó đặc biệt có sự gần gũi với Ngài.

Chúa không có độ lớn kiểu không gian vật lí. Ngài không ở cao trên hàng trăm ngàn cây số hay ở xa hàng nhiều năm ánh sáng. Trái lại,gần gũi của Ngài mang tính chất một tình trạng sống. Ở đâu khuôn mặt và sự hiện diện của Ngài được thể hiện nhiều nhất, ở đâu có tình yêu và sự thiện, ở đó ta sờ được đấng vô biên một cách đặc biệt.

- Nếu như vậy thì cũng có nghĩa Chúa không hiện diện một cách đương nhiên, bởi vì Ngài không phải bao giờ cũng có mặt sẵn đấy.

Chúa vẫn có đó, cả khi ta không cần đến Ngài để rồ máy cuộc sống của ta, nếu muốn nói như thế. Như vậy, có sự hiện diện của Ngài khắp mọi nơi. Nhưng, món quà được gần Chúa một cách thâm sâu của ta có thể nhỏ lại hoặc mất đi, mà cũng có thể trở nên lớn hơn.

Người được Chúa thấm nhập hoàn toàn đương nhiên ở gần Ngài hơn là kẻ xa hẳn Chúa. Ta hãy nghĩ tới việc truyền tin cho Maria. Chúa muốn Maria trở thành đền thờ sống động của Ngài. Đền thờ đó không chỉ là một chỗ ở nơi thân xác Mẹ mà thôi. Và Mẹ đã trở nên chỗ ở của Chúa, vì Mẹ đã mở lòng ra cho Ngài, vì tâm Mẹ đã hoàn toàn hoà hợp với tâm Chúa.

- Nhưng, có thể có chuyện thỉnh thoảng Chúa lui mình vào bóng tối không? Einstein* chẳng hạn, ông tôn thờ Chúa như một bậc thầy kiến trúc của vũ trụ, nhưng cuối cùng ông cũng cho rằng, Ngài chẳng còn thú vị gì nữa với tạo dựng của Ngài và với số phận của con người.

Tư tưởng coi Chúa là một nhà đại kiến trúc trên làm cho í niệm Thiên Chúa bị gò bó. Chúa ở đây chỉ là một giả thuyết bên lề, mà người ta còn cần để có thể giải thích sự hình thành vũ trụ. Theo đó, có thể nói, Thiên Chúa thoạt tiên phác thảo ra vũ trụ, và rồi sau đó vũ trụ tự nó cứ việc tiếp tục chuyển động. Ở đây, bởi vì Chúa thuần tuý chỉ là một căn nguyên vật lí cuối cùng đối với thế giới, nên Ngài cũng có thể đương nhiên rời khỏi sân khấu. Thiên nhiên giờ đây đã có được sự độc lập của nó, còn Chúa thì hết nhiệm vụ. Và cũng theo tư tưởng trên, mối liên hệ tiếp tục của Chúa với tâm con người – nghĩa là với một chiều kích khác của hiện hữu - tới đây cũng hết, vì nó đã không được dự trù ngay từ đầu trong chương trình tạo dựng. Như vậy thì Chúa chẳng còn là đấng “sống động” nữa, mà thật ra chỉ là một giả thuyết, mà người ta rốt cuộc sẽ tìm cách loại trừ.

- Nhưng nhiều nhà thần học cũng nói về “sự vắng mặt của Thiên Chúa”.

Điều này lại hơi khác. Kinh Thánh đã nói tới chuyện Chúa dấu mặt. Chúa ẩn mặt trước đám dân bất tuân. Ngài im tiếng. Ngài không gởi tiên tri đến. Và cả trong cuộc sống các thánh cũng có những đêm tối. Có thể nói, các ngài bị đẩy vào một thứ vắng mặt, một thứ im lặng của Chúa, như trường hợp thánh Thérèse ở Lisieux chẳng hạn, và rồi phải cùng đau khổ cảnh đêm đen của những kẻ không tin.

Nhưng điều đó không có nghĩa là không có Chúa. Cũng không có nghĩa là Ngài kiệt sức, Ngài chẳng còn là tình yêu nữa. Đây là những hoàn cảnh của lịch sử con người hoặc của cuộc sống con người, trong đó vì bất lực không nhận ra Chúa, nên con người đã tạo ra “bóng đêm Thiên Chúa”, như Martin Buber nói. Trong cảnh bất lực hay cố chấp không muốn nhận diện hay liên hệ với Chúa này của con người, xem ra Chúa ẩn mặt.

THIÊN CHÚA MUỐN GÌ?

- Thánh Clê-men-tô* ở Alexandria, một trong những giáo phụ lớn của Giáo hội, có lần nói: “Thiên Chúa vì con người mà dựng nên con người, và Ngài muốn có con người”. Vậy, nếu Chúa là tình yêu nhưng không, thì tại sao Ngài lại cứ bắt ta tôn thờ và ngợi ca?

Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II đã dùng lại câu “vì con người mà dựng nên con người” nhiều chỗ khác nhau trong các thông điệp của ngài. Ngài dùng câu đó dựa theo í của Immanuel Kant* và suy diễn thêm theo một cách mới. Kant nói, con người là vật duy nhất mang trong chính mình một mục đích, và không phải trở thành mục đích cho một cái gì khác. Giáo chủ thì nói : Thật ra, con người mang trong chính mình một kết thúc, và về phần nó, nó lại không phải là mục đích cho một cái gì khác.

Điều đó cũng là thành trì chở che vững vàng cho mỗi con người. Bởi vì Thiên Chúa tạo hoá muốn rằng, không ai có quyền dùng kẻ khác như một phương tiện - dù kẻ đó nghèo hèn hay yếu kém-, cho một mục đích nào đó cao hơn. Ngày nay, trước những thí nghiệm con người, ngay cả việc thí nghiệm phôi thai, điều đó đã trở thành một chân lí cao trọng, nó trở thành một thành trì bảo vệ rất quan trọng cho phẩm giá con người. Nhân quyền chẳng là gì khác ngoài việc không được biến con người thành phương tiện, nhưng là để cho họ có được một phẩm giá bảo toàn.

Nhưng sự kiện đó không có nghĩa là con người hành động đúng, khi nó tự khép kín, khi nó chỉ biết có mình nó mà thôi. Con người là một vật tương giao.

- Nghĩa là gì ?

Trước hết, con người được dựng nên để hướng về tình yêu, hướng về giao tiếp với người khác. Nó không phải là vật chỉ sống cho mình, chỉ biết có mỗi mình mà thôi, không phải là một ốc đảo, nhưng bản chất của nó là giao tiếp. Không có giao tiếp, nó sẽ tự huỷ. Và con người giống Chúa là chính chỗ đó. Là vì, như giáo huấn về Chúa ba ngôi dạy, bản chất của Chúa cũng là tương giao.

Như vậy, tương giao của con người trước hết là tương giao giữa người với người, nhưng đó cũng là tương giao với cái vô cùng, với chân lí, với chính tình yêu.

- Đó là điều bắt buộc?

Tương giao đó hẳn không hạ giá con người. Nó không biến con người thành phương tiện, nhưng trao cho con người tầm lớn của nó, vì chính con người ở trong một tương giao trực tiếp với Chúa và con người trực tiếp được Chúa muốn. Vì thế, không được phép nhìn việc thờ phượng Chúa như là một công việc bề ngoài, như thể đó là chuyện Chúa muốn, hoặc như thể là Chúa cần những nịnh bợ. Chuyện đó xem ra trẻ con, thật khó chịu và buồn cười.

- Vậy thì thế nào?

Thờ phượng hiểu đúng nghĩa, là tôi sống đúng với bản chất tương giao của con người tôi, như vậy là tôi sống đúng với mục đích hiện hữu của đời tôi. Và đó là một cuộc sống theo í Chúa, nghĩa là đi tới đồng í với chân lí và với tình yêu. Đây không phải là ta làm một cái gì để Chúa cũng được vui. Thờ phượng nghĩa là chấp nhận đường bay của mũi tên cuộc đời mình. Chấp nhận rằng mục đích của đời tôi không phải là cho chính mình, nhưng tôi phải vươn lên trên mọi mục tiêu khác. Nghĩa là vươn tới hợp nhất với đấng muốn tương giao với tôi, và đấng đó đồng thời cũng để tôi hoàn toàn tự do trong hành động mình.

- Và đó thật là điều Chúa muốn nơi ta ?

Đúng.

(còn tiếp nhiều kỳ)

Phạm Hồng Lam

Tr Trước | Mục Lục | Tr Sau

Trả lời độc giả

Quí (Phêrô Vũ Văn Quí) thân, đây là câu trả lời cho Quí và cho một số độc giả hỏi vế í nghĩa câu: “Không có Chúa khi phủ định nâng cái không lên thành quyền lực” trong cuốn Thiên Chúa và Trần Thế (Chuong I – 4).

Đấy là một lối nói bóng bẩy thường thấy trong văn chương của giáo sư Ratzinger, hiện là giáo chủ Biển-đức 16.

Khi đề cập tới Thiên Chúa, Ki-tô giáo thường có một lối nói phủ định (negativ). Thiên Chúa quá lớn, vượt ra ngoài tầm hiểu biết của con người, nên ta không thể định nghĩa Người một cách xác định, nghĩa là Thiên Chúa là như thế này, là như thế kia. Nhưng ta luôn nói về Người một cách phủ định, nghĩa là Thiên Chúa là Đấng cùng, quyền năng Người biên… thủy vô chung. Lối suy nghĩ và nói này ta gọi là Thần học phủ định (Negative Theologie).

Đặc biệt, Thần học phủ định rất phù hợp với tâm thức suy nghĩ của người Á châu. Nhiều nhà thần học ki-tô giáo tại Á châu, đặc biệt ở Ấn-độ, vì thế, luôn cho rằng Thiên Chúa là Đấng Không Thề Gọi Tên, Người là Đấng con người không thể hiểu nổi, mà ta chỉ mường tượng được Người mà thôi. Thành ra theo họ, mỗi tôn giáo, ngay cả Ki-tô giáo, cũng chỉ hiểu TC được một chút mà thôi. Mỗi tôn giáo chỉ có thể phản ảnh Thiên Chúa qua một mảnh gương bể (nghĩa là không tất cả, mà chỉ một phần rất nhỏ thôi). Với lập luận này thì đức Giê-su rốt cuộc cũng chỉ phản ảnh một phần nào Thiên Chúa mà thôi, chứ không phải là tất cả. Theo các nhà thần học trên, cả đức Phật, hay thần linh Visnu Ấn-độ giáo cũng là phản chiếu một phần nào đó Thiên Chúa (hay Thượng đế)…

Hồng i Ratzinger, lúc còn là Bộ trưởng Tín lí, đã rất dị ứng với lối thần học phủ định của các nhà thần học Á châu trên đây. Một mặt, ngài đồng í lối quan niệm về Thiên Chúa này nói lên thái độ khiêm tốn của con người trước Đấng toàn năng. Nhưng mặt khác, ngài cho rằng, một khi người ta chủ trương phủ định tuyệt đối (ngài nói một cách bóng bẩy: “một khi phủ định đưa cái không lên thành quyền lực”) nghĩa là chủ trương hoàn toàn không thể biết và hiểu được Thiên Chúa, thì làm sao còn gặp được Thiên Chúa ki-tô giáo! Như vậy cũng có nghĩa là người ta hết tin vào thần tính của đức Ki-tô! Thiên Chúa đúng là vô cùng, vô biên, vượt trí năng con người. Nhưng Thiên Chúa ki-tô giáo thì đồng thời lại là một Con Người (hiện thân qua đức Ki-tô), Người đã nhập thể làm người như chúng ta, cùng chung chia thân phận người của chúng ta, và qua đức Ki-tô chúng ta có thể nhận ra, hiểu và biết đựơc Thiên Chúa như là người Cha của mình. Cái nghịch lí của TC ki-tô giáo là đó! Vừa xa mà cũng là gần, vừa siêu việt mà cũng thực hữu, vừa vô cùng mà cũng có thể gọi tên… Cái khác của Ki-tô giáo đối với các tôn giáo khác là đó!

Nói tóm lại, với câu nói trên, hồng i Ratzinger muốn nói rằng: Khi đã chủ trương phủ định hoàn toàn (nghĩa là cho rằng, hoàn toàn không thể hiểu đựơc TC), thì TC làm sao còn có thể có mặt được. Đó là một câu phê bình ngắn ngủi nhưng cô đọng của hồng i Ratzinger đối với lối Thần học phủ định quá đà nơi một số nhà thần học Á châu.

Tư tưởng này hồng i Ratzinger sẽ lặp lại đôi lần trong Thiên Chúa Và Trần Thế, đặc biệt ngài quảng diễn nó một cách tuyệt vời trong tác phẩm đỉnh cao suy tư của ngài “Dẫn Nhập Vào Ki-tô Giáo”, mà chúng tôi hi vọng sẽ giới thiệu bản dịch tác phẩm này vào mùa hè năm nay.

Quí thân, cũng như Bạn, mình đâu có học Triết hay Thần học ngày nào đâu. Vì thế cái hiểu của mình cũng rất giới hạn. Nhờ đọc và dịch nhiếu tác phẩm của giáo chủ Biển-đức nên mình hiểu câu trên như thế. Không biết nó còn có nghĩa nào khác nữa không? Chờ xem có vị nào góp í thêm không.

Phạm Hồng-Lam

URL: http://danchuausa.net/luu/chuong-i-thien-chua-4/