Trích từ Dân Chúa

Chuỗi Mân Côi Trong Đời Sống Chiêm Niệm: Phần VI, Ý Nghĩa Cuộc Đời Trong Chuỗi Hạt Mân Côi

Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương

Việc lần hạt Mân Côi cuối cùng sẽ đưa ta đến chỗ đem chính mầu nhiệm cứu chuộc lồng vào đời sống thực của chúng ta, và đem đời sống ta tháp vào mầu nhiệm cứu chuộc nhờ sự trung gian của Đức Mẹ. Ta đặt tất cả vào trong tay Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ điểm tô bằng chính nhân đức và tình yêu của Trái Tim Đức Mẹ trước khi dâng lên Thiên Chúa. Và nhờ đó, Đức Mẹ ban xuống cho ta, cho Hội Thánh, cho nhân loại muôn vàn ơn phúc về mọi phương diện. Bức tượng Nữ Vương Hoà Bình, Đức Mẹ tay nâng một quả địa cầu có cắm cây Thánh Giá, đưa ngang tầm ngực, ngước mắt lên trời, nguyện cầu trong im lặng. Quả cầu ấy, theo chính lời giải thích của chính Thánh nữ Catherine Labouré là tượng trưng cho mỗi tâm hồn trong Hội Thánh và cả nhân loại được Đức Mẹ nâng lên ngang ngực như lồng vào Trái Tim Mẹ, như muốn đùm bọc cưu mang cả đất trời trong tình yêu của mình để đem lại cho tất cả một ý nghĩa cao sâu mà đằm thắm, hiền dịu tuyệt vời.

Ta có thể thấy rõ ý nghĩa ấy khi xét tất cả mọi sự dưới một khía cạnh quan trọng và cơ bản của trần gian này: thời gian tính. Thời gian tính đó là chiều kích làm cho cuộc đời này có một cái gì như mong manh tạm bợ, thậm chí có triết gia coi là hư ảo.

Lý trí cũng như cảm tình của bao triết gia, văn nhân nghệ sĩ cũng như của tất cả mọi người đều ưu tư khắc khoải trước dòng thời gian biền biệt trôi đi như lôi cuốn tất cả vào vực thẳm của hư vô. Ai trong chúng ta lại không có bâng khuâng nhớ nhung hay hối tiếc về quá khứ? Hay hồi hộp lo sợ, khát khao, nôn nóng chờ tương lai? Hay là chán chường hoặc đam mê bám víu vào hiện tại?

Sâu xa hơn nữa là những suy tư có tính cách hữu thể học. Quá khứ nay không còn nữa, vậy nó ở đâu? Phải chăng mọi sự đã qua là đã hoàn toàn bị hư vô hoá? Lòng trung nghĩa của Nhạc Phi, Nguyễn Trãi, chẳng lẽ lại là hư vô? Nhưng nếu còn thì ở đâu? Và tương lai? Lúc chưa có thì chẳng lẽ lại không là gì cả? Vì từ không làm sao ta có được? Mà nếu có thì ở đâu? Còn hiện tại thì chẳng qua là một chớp mắt chuồi từ cái chưa có (hay không có) của tương lai để rồi lại rơi vào cái không còn nữa của quá khứ. Thành ra phải chăng hiện tại có mà cũng như không? Tóm lại phải chăng tất cả chỉ là hư vô?

Thời gian như mạch nước ngầm, làm xói mòn sụp đổ tất cả, lôi cuốn vào hố thẳm của hư vô. Mọi sự vì vậy như chợt có chợt không, chẳng khác gì ảo ảnh.

Đó là cái nhìn tự nhiên, suy nghĩ tự nhiên của lý trí con người và cảm xúc tự nhiên của tình cảm con người. Thế nhưng lấy ánh sáng toả ra từ 15 sự VUI-THƯƠNG-MỪNG là 3 chu kỳ dọi lên 3 nhịp: hiện tại, quá khứ và tương lai, rồi đem lồng vào 3 nhân đức Tin-Cậy-Mến ta sẽ thấy Mầu nhiệm cứu độ chính là cái chìa khoá thần diệu giúp ta giải mở được cái kỳ bí của thời gian mà trí tuệ, tình cảm tự nhiên của con người như hoàn toàn bất lực. Mầu nhiệm cứu độ với 3 chu kỳ: VUI-THƯƠNG-MỪNG; thời gian với 3 nhịp: quá khứ, hiện tại, tương lai; tâm hồn tín hữu với 3 nhân đức: Tin-Cậy-Mến. Đó là thực tại, mỗi thực tại có 3 nhịp, như lồng vào nhau trong một thể liên hoàn, nhuần nhuyễn, kết hợp, tương nhập, tạo thành một cảnh vực của tâm linh, đem lại cho nhân sinh và vũ trụ cái ý nghĩa đích thực và sâu xa cao quý của nó.

1. HIỆN TẠI-VUI-TIN

Hiện tại đôi khi thật êm đềm, dường như không có vấn đề, nhưng nhiều khi lại khiến ta hoặc say mê cuồng nghiệt hoặc ngược lại muốn chạy trốn vì thấy ê chề mệt mỏi hay vì phải đối diện với những chọn lựa gay go. Nhưng mỗi giây phút hiện tại đều ngầm mang theo một lời mời gọi của Thiên Chúa, trước những vấn đề lớn nhỏ khác nhau, đặt ra trước sự chọn lựa giữa chối từ hay chấp nhận trong đức tin.

Mỗi chọn lựa trong hiện tại đều có ảnh hưởng quyết liệt trong tương lai (và cả trên quá khứ nữa). Có thể nói mỗi giây phút hiện tại là một cuộc truyền tin, mang lại ý Chúa mời gọi ta, nên ta phải biết lấy ánh sáng của 5 sự Vui hoặc lấy tâm tình và thái độ của Đức Mẹ đón nhận những gì xảy đến, cả những điều bề ngoài có vẻ không may mắn cũng thuận tình “xin vâng”. Bởi vì ta biết rằng trong căn bản, mọi sự xảy đến với ta đều hàm chứa ý Chúa nhiệm mầu. Mà ý Chúa bao giờ cũng tốt lành, là ân sủng phát xuất từ tình yêu sáng tạo và cứu độ. Vì với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác, biến mọi sự nên lành (Rm 8,28). Do đó, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào, thời đại nào thì “khi này” – giây phút hiện tại – cũng là ân sủng và việc gì xảy đến cho ta, cho nhân loại, cho vũ trụ cũng nằm trong kế độ tình yêu sáng tạo và cứu độ. Chính vì thế Hội Thánh vẫn thường gọi tên các năm là năm “ân sủng”: năm ân sủng 1970, 1980, 1990…

2. QUÁ KHỨ-THƯƠNG-MẾN

Cái “khi nay” của giây phút hiện tại sẽ qua đi, làm cho ta tiếc nuối là vì do lòng tiếc nuối, bám víu, không muốn cho thời gian cướp đi chôn vào mồ quá khứ. Đó là chuyện thường tình. Thế nhưng, là Kitô hữu, ta sẽ nhớ đến tâm tình và thái độ của Đức Mẹ khi đứng dưới chân Thánh Giá. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm: Belem, Nazarét, 30 năm sống an vui ấm cúng tình Mẹ Con, tất cả giờ đây như bị xoá nhoà với cuộc tử nạn và táng xác. Quá khứ là nấm mồ chôn tất cả. Với một lòng mến thiết tha, ta kết hợp với Chúa và Đức Mẹ trên đường Thánh Giá trong 5 sự Thương, để cùng hiến dâng mọi sự lên Chúa Cha. Ta có níu kéo, bám giữ thì thời gian cũng cướp mất nhưng nếu ta hiến dâng, từ bỏ thì tất cả (kể cả tội lỗi) lại có thể biến thành của lễ, hiến dâng lên thờ phượng Chúa. Tất cả sẽ được tích trữ vào kho lẫm muôn đời sau khi được thanh lọc nhờ giá máu Chúa Giêsu và nước mắt của Đức Mẹ.

Nước mắt, mồ hôi và máu của con người đổ ra được hoà nhập với nước mắt, mồ hôi và máu của Con Chiên, sẽ trở nên mạch nước rửa sạch và nuôi dưỡng. Quá khứ là kho lẫm chuẩn bị cho tương lai, cái tương lai trần thế này và chính cái tương lai tuyệt đối mai sau.

3. TƯƠNG LAI-MỪNG-CẬY

Với chuỗi hạt Mân Côi, tương lai không còn là cái gì bấp bênh đe doạ, mà là con đường để hướng về, dẫn tới tương lai tuyệt đối, là Nước Trời vĩnh cửu, được phác hoạ tiên báo, dọn sẵn và bảo đảm qua 5 sự Mừng với hình ảnh Đức Mẹ vinh hiển. Trên bước đường tương lai ấy, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống để soi đường, mở lối cho những tâm hồn biết mở rộng, biết hướng về ngày mai trong đức cậy.

“Hãy vững lòng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

“Thầy sẽ gửi Đấng an ủi đến cho các con” (Ga 16,7).

Nghĩa là Thầy sẽ gửi Thánh Thần đến dẫn dắt các con, đưa các con thuận buồm xuôi gió, đến bến bình an phúc lạc, mặc cho biển trần gian phong ba bão táp đến đâu.

Được lồng vào Mầu nhiệm cứu độ thời gian không còn là cái gì lơ lửng, chảy xuôi, đổ rơi vào vực thẳm hư vô, nhưng đã trở nên như một dải lụa mà từ muôn đời đã phát xuất từ Thiên Chúa hằng hữu, để cho ta thêu hoa dệt gấm từng giây phút, đón nhận trong tin cậy mến và rồi sau đó được cuốn lại đem vào kho lẫm muôn đời.

Thời gian chỉ là cái khung cửi Chúa lập ra để cho ta thêu dệt tấm lụa đời của ta theo những điều chỉ dẫn của Thiên Chúa, dưới sự dạy dỗ của Đức Mẹ. Mỗi giây phút là một mũi kim đường chỉ, tạo nên những hoa văn tuyệt diệu mà ngày chung thẩm sẽ được dàn trải ra dưới ánh sáng của mặt trời vĩnh cửu là chính Con Thiên Chúa. Và tấm lụa đời ta dệt nên sẽ là tấm áo cưới được bàn tay Đức Mẹ khoác lên linh hồn ta, trước khi Ngài dẫn ta vào dự tiệc liên hoan.

Cuộc đời của ta dù có vẻ tầm thường hay hẩm hiu gian khổ đến đâu đi nữa, nếu ta biết thông dự vào mầu nhiệm cứu độ được rút gọn nơi chuỗi hạt Mân Côi, nó sẽ như một vườn ươm để Thiên Chúa gieo vãi, là nơi là nơi mà hạt lúa đang hẩm nát đi để tiến tới mùa gặt huy hoàng. Ta cũng có thể ví cuộc đời như một cuộc hành hương, trẩy hội tiến về Thành thánh Giêrusalem muôn thuở. Lời kinh Kính Mừng khác nào như một khúc hành ca theo nhịp bước ta đi, dưới sự dìu dắt và phù trợ của Đức Mẹ. Khúc hành ca ấy căn bản là lời tán tạ của Đức Mẹ trong bài Magnificat khi Đức Mẹ còn mang Chúa Giêsu trong lòng băng tuyết của Ngài, cũng như Hội Thánh mang chứa tất cả con cái dân Chúa trong lòng để sinh ra trong Nước Trời muôn thuở, nơi cõi sống thực muôn đời.

Như vậy, ngoại trừ tội lỗi, tất cả sẽ được bao hàm, phục hồi, thâu gọn trong Đức Kitô (récapituler) qua bàn tay thâu lượm chắt chiu của Đức Mẹ. Từ một nụ hoa chớm nở, cho đến một con chim non, một con bê, một em bé chào đời, cho đến nền văn hoá khai sinh ló dạng. Không một sự sinh thành nào trong bình diện tốt đẹp của nó, mà không phảng phất hình bóng Hài Nhi sinh ra chào đời trong máng cỏ, dưới cái nhìn trìu mến tôn kính của Đức Mẹ; từ một con sâu bị chà đạp (Tv 21 có gợi lên hình ảnh con sâu bị chà đạp), đến những vụ án oan khiên qua tai nạn giai thông, những cuộc chiến tranh tàn khốc… cho đến những sự tiêu vong của các triều đại, của các nền văn hoá, không một cực nhọc, vất vả, tủi nhục, tan vỡ nào mà không in nét đau thương của Đấng chịu khổ hình Thập giá trên Núi Sọ và của Mẹ Ngài cùng đứng san chia uống cạn chén đắng trong chiều thứ sáu Tử nạn. Và cuối cùng, từ một niềm vui của một em bé làm đúng bài toán cộng, đến những thành tựu văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội trong những yếu tố tích cực của chúng, không một thành công nào, hay một thắng lợi công chính nào mà không được chiếu rạng trong sự rực rỡ huy hoàng của hình ảnh Đức Mẹ lên trời vinh hiển. Vả chăng những thành đạt ấy chỉ có ý nghĩa nếu được xây dựng trên mầu nhiệm Đức Mẹ lên trời, bằng không thì dù huy hoàng rực rỡ mấy cũng chẳng khác gì các tia chớp loé lên rồi vụt tắt trong đêm dày của vũ trụ hỗn mang theo quy luật sinh trụ dị diệt của muôn loài thụ tạo.

Thêm vào đó là hình ảnh Đức Nữ Vô Nhiễm trinh tuyết vẹn tuyền khác nào như đoá hoa sen vươn lên khỏi bùn nhơ tội lỗi của trần gian, trong đó có chính lòng ta còn hoen ố bụi trần, làm cho ta có nơi ngước mắt trông lên, để dần dần chúng ta cũng đượm màu trắng vô ngần và hương thơm ngào ngạt thoát khỏi ô uế, bùn lầy hôi tanh của thế tục cũng như chính lòng ta.

Hai tín điều mà Hội Thánh đã công bố: Vô Nhiễm và Mông Triệu quả là hợp thời như liều thuốc hồi sinh đem lại hy vọng cho một thế giới bên ngoài có vẻ hào nhoáng phồn vinh, nhưng bên trong thì thối tha mục rữa, hầu như tuyệt vọng không lối thoát. Hội Thánh như nêu cao lá cờ hy vọng, kêu gọi nhân loại tin tưởng vươn lên với niềm vui chiến thắng. Chẳng những Ngôi Hai làm người đã thoát khỏi nanh vuốt của nó mà một người phụ nữ thuần tuý như bất cứ con người nào trong hàng ngũ Ađam Eva, cũng đã thoát khỏi xiềng xích của nó là tội lỗi, nhờ ơn Vô Nhiễm; và thoát khỏi đau khổ chết chóc với ơn Mông Triệu.

Chuỗi hạt Mân Côi chỉ là nhắc lại mạc khải của Thiên Chúa, vén màn lên cho ta thấy ý nhiệm của tình yêu sáng tạo và cứu chuộc để ta biết rằng, xuyên qua vui buồn, sướng khổ, vinh nhục, thăng trầm của thế sự nhân tình, xuyên qua tiến hoá của vũ trụ, thực tại căn bản là Nước Trời đang được kiến tạo. Qua sự thuận tình của đón nhận của Đức Maria và được sự truyền tiếp của Hội Thánh, Ngôi Hai Thiên Chúa đã mang lấy nhục thể trở nên bào thai trong lòng Đức Mẹ cũng như trở nên của ăn nuôi sống trong Bí Tích Thánh Thể. Ngôi Hai đã ngụp lặn cùng đáy sâu của nhân loại là vũ trụ. Ngài đã dùng cây Thánh Giá kéo tất cả xoay ngược lại cái chiều xuống dốc do tội nguyên tổ gây ra, chuyển hướng kéo lên, đưa trở về trong lòng Thiên Chúa Cha từ ái, với sự hiệp thông của Thánh Thần và sự cộng tác của Đức Mẹ và tất cả những ai được chọn làm con Thiên Chúa trong lòng Hội Thánh, Đức Kitô thực hiện kế đồ phục hồi tất cả mọi sự trong chính mình Ngài là tảng đá góc tường của đền thờ Thiên Chúa là Hội Thánh. Cuối cùng vũ trụ sẽ được đi vào vinh hiển trong ngày mà Đức Kitô sẽ đặt mọi sự trong Thiên Chúa Cha từ ái.

Chúng ta sẽ thấy rằng cõi đời này là một cuộc xuất hành của dân Chúa, từng đội ngũ nối tiếp nhau vượt qua Biển Đỏ nhờ phép Rửa, đi qua sa mạc là trần gian để tiến vào Đất Hứa là Nước Trời. Trong đoàn hành hương, thay vì hòm bia Thiên Chúa chứa đựng manna, thì có bí tích Thánh Thể cùng đi, kèm theo hai ca đoàn: một bên là giờ kinh Phụng Vụ với 150 thánh vịnh, một bên là kinh Mân Côi với 150 kinh Kính Mừng. Hai ca đoàn ấy chủ yếu hợp lòng cùng Đức Mẹ dâng lên lời tán tạ Thiên Chúa qua bài tán tụng “Magnificat” trong giờ kinh Phụng Vụ ban chiều và đó cũng còn có thể xem là đường chỉ xuyên qua 150 hạt chuỗi kinh Mân Côi.

150 thánh vịnh là do Chúa Thánh Thần khởi hứng. Chuỗi hạt Mân Côi là do Đức Mẹ truyền ban. Cả hai hoà lại trong bài Magnificat, kết hợp với thánh lễ tạ ơn, mà dân riêng Chúa hằng ngày không ngớt dâng lên trước toà Thiên Chúa, chu toàn nhiệm vụ cốt yếu của thụ tạo đối với Đấng tạo dựng muôn trùng chí thánh, mà cũng là Chúa Cha vô cùng từ ái muôn đời đầy lòng thương xót; thờ lạy, cảm tạ, đền bồi, cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ, để phá sạch tội phản loạn kiêu căng bạc tình của nguyên tổ. Nhờ đó mà mọi sự được tái lập trong trật tự hài hoà của ban nhạc tình yêu, xuất phát từ mầu nhiệm Ba Ngôi muôn đời dìu dắt bản thể. Nhờ bàn tay của Đức Mẹ nâng lên gần tầm Trái Tim Tân Khổ vẹn sạch, tất cả như một ống thu lôi đón hứng lấy lửa diêm sinh mà lẽ ra Thiên Chúa đã trút đổ xuống thành Sôđôma khổng lồ này là thế gian đang ngụp lặn trong hố sâu tội lỗi tràn ngập quá đầu…

Lần hạt Mân Côi là dám dấn thân vào đoàn quân chí nguyện của chiến dịch tình yêu, do Đức Mẹ là Nữ Vương trời đất hiệu triệu. Mẹ gọi chúng ta thưa “có con đây” và can trường tiến lên con đường hẹp của Thánh Giá là con đường dẫn vào Đất Hứa muôn đời vinh hiển, nơi mà hiện nay Chúa Giêsu và Đức Mẹ đã đi vào, dọn chỗ cho ta, đến ngày cánh chung Chúa trở lại đón ta vào dự tiệc cưới Con Chiên hoan lạc muôn đời. Amen.

PHẦN VIII: MỘT VÍ DỤ GỢI Ý VỀ CÁCH NGẮM MỘT MẦU NHIỆM TRONG CHUỖI HẠT MÂN CÔI

Trong phần này, xin gợi ý một cách ngắm các mầu nhiệm để áp dụng.

Trước hết xin lưu ý rằng: trong việc chiêm niệm, điều quan trọng không phải là biết nhiều chuyện, nhưng là cảm mến Thiên Chúa cách sâu sắc. Việc rảo qua các hình ảnh này đến tâm tình kia một cách hời hợt không làm ta thoả lòng bằng việc đắm chìm trong một hình ảnh, một tâm tình có sức giúp ta cảm nhận và sống tình yêu Thiên Chúa. Chỉ cần một khía cạnh nào đó thôi. Có lẽ chỉ cần lấy một điều ấy làm trọng tâm cho đời sống tâm linh của mình cũng đủ.

Ví dụ: Suốt cuộc đời, Đức hồng y Bérulle, hình như giờ nguyện ngắm nào cũng chỉ có việc thờ lạy Ngôi Hai ngự trong lòng Trinh nữ Maria.

Pascal, có thể là suốt đời chỉ chiêm niệm Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Cây Dầu.

Gabriel Adolorata suốt đời như kết hợp với Trái Tim tân khổ của Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá.

Magaritta à la Coque suốt đời thờ lạy Thánh Tâm Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua.

Têrêsa Hài Đồng, hình như cuối đời thờ lạy Thánh nhan Chúa bị bầm nát.

Triết gia Bergson có lẽ đã luôn chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Mẹ vinh hiển lên trời.

Bernadette ở Lộ Đức hình như luôn chiêm ngưỡng hình ảnh Đức Mẹ khi hiện ra, chắp hai tay ngang ngực, ngước mắt lên trời mà tự xưng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.

Thánh Antôn Pađua có lẽ lúc nào cũng mang hình ảnh Chúa Hài Đồng trong tâm tưởng.

Charles de Foucauld cuối đời dường như luôn thông phần tham dự vào niềm vui vô tận của Chúa Giêsu Phục Sinh.

Nữ tu Génévilève Thánh Nhan, chị của Têrêsa Hài Đồng, sáng nào cũng sống cái tâm tư hoan lạc của Maria Magđala được Chúa Phục Sinh tỏ mình ra trong vườn, cạnh mồ thánh vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh đầu tiên.

Cũng được biết, có một tín hữu, hầu như luôn luôn sống tâm tình của hai môn đệ Emmaus, vì như luôn có Chúa Giêsu Phục Sinh đồng hành trên mọi nẻo đường đời, nhất là vào hoàng hôn của mỗi ngày Chúa nhật…

Sau đây xin gợi ra một số ý nghĩ, cảm tình, có thể dùng khi chiêm niệm Mầu nhiệm thứ nhất trong năm sự Vui. Hy vọng những gợi ý đơn sơ này sẽ cho thấy được phần nào sự phong phú vô tận của việc lần hạt Mân Côi, với thái độ chiêm niệm, có nhiều điều gợi ý, nhưng như vừa nói thực ra mỗi người chỉ cần một điều nào đó thích hợp là đủ. Vậy lúc chiêm ngắm mầu nhiệm truyền tin, ta có thể chọn một trong những gợi ý sau đây:

1. Đồng hoá với vũ trụ, với nhân loại, như quy tụ lại trong lòng Đức Mẹ, khao khát chờ mong sự viếng thăm và ngự xuống của Thiên Chúa Ngôi Hai, như quả phụ vọng phu đứng chờ chồng. Thật vậy, cả vũ trụ có thể ví như người nữ vọng phu vắng bóng lang quân là Con Thiên Chúa, chờ ngày hôn phối thiêng liêng. Linh hồn cá nhân ta cũng vậy, Hội Thánh cũng vậy, nhân loại cũng vậy.

2. Đồng hoá với Đức Mẹ, dâng sự thuận tình tin tưởng, đón nhận lệnh truyền của Chúa, mở rộng tâm hồn cho Chúa Thánh Thần ngự xuống bao phủ. Có thể nói là để Ngài thực hiện một sự Nhập thể thiêng liêng của Ngôi Hai trong chính bản thân ta, để tiếp diễn chính cuộc đời của Chúa Giêsu qua đời ta.

3. Ta có thể xin cho ta và tất cả mọi người nhận rõ được ơn thiên triệu của mình, và được như Đức Mẹ biết thưa “xin vâng” và chu toàn trọn vẹn.

4. Ta có thể tự hạ mình thẳm sâu để thờ lạy sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa Ngôi Hai uy quyền toàn năng, hạ mình xuống làm một bào thai, bé hơn hạt cát nhỏ, trong lòng một Trinh Nữ nghèo khó.

5. Hợp ý với Đức Mẹ, ta thông công cùng toàn thể Hội Thánh, đại diện cho cả nhân loại và vũ trụ mà thờ lạy Thiên Chúa ngự trong lòng Đức Mẹ, như ta thường thờ lạy Thiên Chúa ngự trong Bí Tích Thánh Thể, trong Nhà Tạm. Đức Mẹ thường được xưng tụng là Hòm Bia Thiên Chúa là vì vậy.

6. Ta vui mừng hoan hỉ vì từ nay thụ tạo không còn bị côi cút cô quạnh, cách xa mặt Thiên Chúa nữa. Vì chính Thiên Chúa đã ngự xuống trần gian, cắm lều ở giữa chúng ta.

7. Kết hợp với Đức Mẹ mà dâng tất cả lên Thiên Chúa Cha, làm một với Chúa Giêsu cũng đang hiện diện trong lòng ta cách thiêng liêng như thực ngự trong lòng Đức Mẹ vậy.

8. Suy gẫm về tính cách mầu nhiệm âm thầm kín đáo của những việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm, đang làm và sẽ làm mà con mắt thế tục không hay biết gì, để thêm tin tưởng vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên đời ta, trên lịch sử của nhân loại, của Hội Thánh. Quả vậy, khi Ngôi Hai ngự xuống trần gian, ngoại trừ Đức Mẹ, không ai biết cả. Hiện nay và mãi mãi Chúa cũng làm những việc vô cùng kỳ diệu trong lĩnh vực siêu nhiên mà không ai hay biết.

Ví dụ: giữa lúc Đức Quốc Xã hoành hành, gần như sắp làm chủ cả thế giới, thì trong một lò hoả thiêu nào đó, nữ tu Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá được ơn hoả thiêu, thân xác biến thành tro, tung rải rơi rớt chẳng biết bay về đâu (sự hoả thiêu ấy, đúng là ƠN, bởi vì người nữ tu này đã được phép bề trên cho tuyên khấn dâng mình làm của lễ toàn thiêu để ngăn chặn làn sóng Đức Quốc Xã sắp uy hiếp khắp nhân loại và Hội Thánh). Sự hoả thiêu ấy là cả một sự bừng nở của một đoá hoa thiêng liêng tuyệt mỹ. Còn tác dụng của nó trên lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại lớn lao đến mức nào, thì có ai biết, ai lường cho được?

Chính trong lúc ta viết, ta đọc dòng chữ này, có thể Thiên Chúa cũng đang thực hiện những sự kỳ diệu như vậy, mà có ai biết ai hay? Suy gẫm về sự lặng lẽ âm thầm của mầu nhiệm Truyền Tin, ta sẽ có một cái nhìn khác hẳn về sử quan. Điều chi phối lên chiều sâu của lịch sử (lịch sử cứu độ cũng như lịch sử phàm trần) không phải là những biến cố rầm rộ lẫy lừng bên ngoài, chỉ bùng lên rồi xẹp xuống; song là những gì diễn ra ở trong thế giới sâu xa thầm kín của nội tâm các linh hồn, trong đó có linh hồn ta.

Xưa kia giữa trần gian, ai biết được cô thiếu nữ Maria tầm thường kia sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng thế, dù là quét chợ, bán hàng rong, tê liệt, đui mù, cũng là con cái Thiên Chúa, là Đền Thánh, nơi Chúa ngự phần nào tương tự như “lòng Bà đầy ơn phúc”. Mỗi lần lên bàn thánh rước lễ trở về bàn quỳ, ta có thấy được sự cao trọng tuyệt vời đang xảy ra trong lòng ta không? Ý thức được điều ấy, ta sẽ thấy mọi của cải trần gian, danh vọng… sẽ là rơm rác tro bụi.

Ta trầm trồ khen ngợi, hãnh diện, kênh kiệu, vì loài người đã đặt chân lên cung trăng mà ta lại đui mù trước sự lạ vượt xa mọi sự lạ: một linh mục ở một nhà nguyện tồi tàn nào đó trong một vùng quê hẻo lánh nghèo nàn, chỉ có vài chục hộ giáo dân lao động, bữa đói, bữa no, thế mà mỗi buổi sáng, dưới ánh nến chập chờn khi ông cầm lấy miếng bánh nhỏ khẽ nói: “Này là Mình Ta” tức thì Ngôi Hai Thiên Chúa ngự xuống trên Bàn Thờ, chung quanh có chín phẩm Thiên Thần, các thánh Nam Nữ thờ lạy, tung hô (cung vàng điện ngọc, lâu đài, dinh thự, quyền bính trần gian có nghĩa lý gì so với cuộc thiết triều linh thánh ấy).

Trong lúc ta đang viết, đang đọc những dòng chữ vô duyên này, ai biết đâu Thiên Chúa đang cho những bào thai như Têrêsa Hài Đồng, như Đaminh Saviô thành hình. Ai biết đâu Ngài đang kết hợp những cặp vợ chồng như ông bà Louis Martin, ông bà Frédéric Ozanam, ông bà Jacques Maritain. Biết đâu trong lúc này ở một toà giải tội, nơi một góc xó trong một nguyện đường nào đó, một linh hồn tầm cỡ Charles de Foucauld đang nhận bí tích Giải Tội, mở đầu một cuộc đời thánh thiện, khơi chảy cả một truyền thống thiêng liêng hùng vĩ. Hoặc trên một giường bệnh nào đó, nơi một pháp trường nào đó, có những linh hồn đang trở về cùng Chúa ngay giây phút cuối đời, khi sắp trút hơi thở cuối cùng, như Fransini, như người trộm lành. Biết đâu trong giây phút này, cạnh một cột nhà thờ nào đó, có một Paul Claudel hay một André Frescard tò mò vào xem chầu Mình Thánh, nghe nhạc nghe giảng cho vui, bỗng nhiên nhìn nhận ra chân lý và được ơn trở lại. Nói rằng: “biết đâu” chỉ là một cách văn vẻ để nói “chắc hẳn là như thế”. Những điều kỳ diệu như vậy là do ơn Chúa, ơn Đức Mẹ, nhưng đồng thời cũng là do lời cầu nguyện âm thầm của bao linh hồn thánh thiện.

9. Nếu có ít nhiều xu hướng triết lý, ta có thể suy gẫm về giá trị của thân xác và vật chất (qua thân xác con người), về vấn đề trong tương quan giữa tinh thần và cơ thể (vì Ngôi Hai mặc lấy xác phàm).

10. Cầu nguyện cho bao người được thụ thai trong mỗi giây phút để tất cả được ơn cứu độ, đạt được cứu cánh tối hậu của kiếp người là trở nên con cái Thiên Chúa trong Đức Kitô để hưởng hạnh phúc muôn đời.

11. Hợp lòng cùng Trái Tim Đức Mẹ mà yêu mến Chúa, và hợp cùng Thánh Tâm Chúa mà yêu thương Đức Mẹ. Cùng trong một nhịp với hai trái tim chí thánh ấy mà kính mến Thiên Chúa Cha, mà yêu thương mọi người, mà yêu thương cuộc đời. Vâng, yêu thương cuộc đời này vì đời này là vườn ươm gieo mầm sự sống siêu nhiên vĩnh cửu, đời này là một cuộc hành hương trẩy hội, tuy có vất vả gian khổ, nhưng cuối cùng sẽ đưa con người có thiện tâm đến chỗ thành tựu viên mãn trong Nước Trời muôn thuở.

12. Xin Đức Mẹ nhận chính mình ta vào trong lòng Mẹ như Mẹ đã nhận lấy Chúa Giêsu vậy…

Trên đây chỉ là gợi ra một vài hướng suy nghĩ để người đọc thấy rằng mỗi một mầu nhiệm tiềm ẩn bao nhiêu là ý nghĩa cao thâm, có thể là của ăn siêu nhiên vô cùng vô tận cho tâm hồn. Và như trên đã nói: chỉ một ý nghĩa cũng đã đủ cho tâm trí ta đào sâu mãi không cùng, khác nào như miệng ngậm đường phèn, như ong hút mật hoa, như diệp lục tố hút năng lượng mặt trời, như rễ cây hút nhựa sống từ lòng đất phì nhiêu.

Hơn nữa, cần nhắc lại rằng, như đã nói trên đây, chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đúng. Chính Chúa Thánh Thần mới là chủ thể nguyện cầu đích thực. Tất cả những nỗ lực của chúng ta, trước là để bày tỏ thành tâm thiện chí, sau là để điều chỉnh khả năng tâm lý và tâm linh hầu thanh lọc dần những ý tưởng, cảm tình, hình ảnh, ước muốn uế tạp của thế gian và thay thế bằng những ý tưởng, cảm tình, hình ảnh, ước muốn phù hợp và thích ứng với Lời Chúa hơn. Công việc của ta khác nào như so lại dây đàn, còn nhạc sĩ chính là Chúa Thánh Thần sẽ trực tiếp linh ứng, tấu lên những ngón đàn kỳ diệu vượt quá tầm mức của bất cứ con người nào. Và Thánh Thần thì sẽ không biết từ đâu thổi đến và sẽ thổi đưa đi đâu. Rất có thể rồi sẽ như trường hợp của Têrêxa Hài Đồng chỉ nghe tiếng kêu của Chúa Giêsu: “TA KHÁT” là đủ để lấy quyết tâm trì chí dâng trọn tình yêu lên để làm dịu cơn khát tình yêu của Thiên Chúa như luôn nài nỉ van lơn xin ta bố thí cho Ngài một hớp nước hèn mọn của tình yêu ta. Hoặc sẽ như Giaxintha ở Fatima luôn luôn khắc khoải về số phận muôn đời của các linh hồn, nên luôn luôn hãm mình hy sinh để cầu xin Chúa ban ơn cứu vớt các linh hồn sắp bị hư mất đời đời…

Trong bàn tiệc thánh của 15 mầu nhiệm chuỗi Mân Côi, Chúa và Đức Mẹ đã dọn ra vô vàn sơn hào hải vị thiêng liêng, ta sẽ tuỳ vị trí, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tâm tư, tuỳ ơn thiên triệu mà tha hồ lựa chọn, chỉ một món cũng đủ, miễn là ta sống tận tình, kiên trì, bền đỗ. Bởi vì tất cả chỉ là những dạng thức khác nhau của cùng một điều duy nhất: đó là YÊU MẾN.

An ủi Thánh Tâm, an ủi Mẫu Tâm, cầu nguyện cho các linh hồn, cầu cho Đức Giáo Hoàng, cầu cho hoà bình, cầu cho Chúa mau đến lại… chỉ là những nốt khác nhau của một bản nhạc duy nhất, do một nhạc sĩ duy nhất là Thần Linh Thánh Ái ở trong Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu. Do đó, mỗi khi đã tìm ta được món ăn thiêng liêng duy nhất dành riêng cho mỗi tâm hồn, ta chỉ còn quỳ gối, cúi đầu nhắm mắt lặng yên mà thờ lạy kính yêu, như trường hợp hai mẹ con Thánh Mônica và Thánh Augustinnô, hai chị em Têrêxa và Xêxilia Martin, hai chị em thiêng liêng Têrêxa Avila và Gioan Thánh Giá, hai người bạn Phanxicô và Clara sau khi trao đổi thiêng liêng, rồi cùng nhau im lặng, họ đã hầu như quên tất cả (nhất là quên hẳn chính mình) đi vào thế giới thần hiệp siêu nhiên chìm đắm, có thể nói gần như tan biến, mất hút vào trong trùng dương bát ngát của tình yêu Thiên Chúa chẳng khác gì như đã được nếm trước cái hương vị thần diệu của Nước Trời vĩnh cửu.

Tâm hồn sẽ cảm nghiệm được phần nào Lời Chúa hứa. Ta sẽ đến ở trong các con, tỏ mình cho các con, và tự đáy lòng các con sẽ vọt lên nguồn mạch nước trường sinh (Ga 14,23; 7,37-38). Dòng nước ân sủng làm cho vườn Thượng Uyển là chính tâm hồn ta trổ hoa, đậu quả, dâng lên rất đẹp mắt Thiên Chúa muôn trùng chí thánh sẽ tràn chảy tưới mát vườn nho của Thiên Chúa, làm cho bao mầm lúa đâm chồi, đơm hạt đi đến mùa gặt huy hoàng… và không những thế mà còn gián tiếp chi phối lên dòng lịch sử nhân loại kết quả phúc lợi thiêng liêng khó mà lường được. Lúc ấy, ta sẽ nhận định một cách hiện thực, sâu xa và kiên định đâu là sự bình an và niềm vui của Chúa ban, đâu là hạnh phúc thật. So với mối phúc thật ấy thì mọi sự trần gian: vui buồn, khoẻ mạnh, ốm đau, giàu nghèo, thành bại, thịnh suy, vinh nhục và cuối cùng cả sự sống, sự chết nữa, chỉ là hình bóng qua mau. Chỉ riêng có 15 sự trong chuỗi hạt Mân Côi mà Đức Mẹ ban cho ta, mời gọi ta ôn nhớ, ghi tạc, suy gẫm, thông dự, chung sống, mới là thực tại thực sự tồn tại muôn đời. Và lúc ấy ta mới thực sự nếm được cái vui mừng thật của Tin Mừng, và ta sẽ loan truyền đều ta thực sự nếm được ấy, trước hết bằng chứng tích của một cuộc sống thực tế hằng ngày với những vui, buồn, sướng, khổ, thăng trầm như mọi kiếp sống của anh chị em ta. Đó là điều chính yếu, ai cũng làm được và có nhiệm vụ phải làm như nhau. Rồi nếu quả là có ơn kêu gọi thì tuỳ nơi, tuỳ lúc, tuỳ người, tuỳ cách ta làm chứng nhân trong khiêm nhường, kín đáo, thận trọng, tế nhị, kiên trì, nhẫn nhục và nhất là trong yêu thương.

Nếu được vậy thì tâm hồn ta sẽ luôn phảng phất hình ảnh Đức Mẹ đồng hành, phù trợ khích lệ, an ủi, soi sáng. Lúc nào cũng như thầm vang lời chào mừng Mẹ và Con Mẹ, trong từng cái “khi nay” và suốt cuộc đời ta, cho đến “khi nay” cuối cùng là “giờ lâm tử”, đúng hơn là “phút sinh thì”, lúc ta sinh vào trong cõi sống muôn đời. Một cuộc đời như vậy là thực hiện được ý Cha trọn vẹn như lời của Chúa Giêsu và Đức Mẹ được trình bày thâu gọn qua chuỗi Mân Côi, miễn là ta sạch tội, thì cả cuộc đời, và ở đâu, lúc nào, làm gì, dù biến cố phủ phàng mấy đi nữa cũng được chung tâm tình với Đức Mẹ mà biến thành một bài “Magnificat” khởi đầu ở trần gian và tiếp tục nơi vinh phúc muôn đời không dứt “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa” vì lòng xót thương của Người tồn tại đến muôn đời. Amen.

VÀI LỜI MINH XÁC

Trên đây là những suy niệm thiêng liêng chủ yếu có tính cách “gợi ý”, “gợi cảm”, “tạo hình”, “đánh động tâm hồn”, nhằm hướng người tín hữu trong đời sống nội tâm và hành vi thực tế, chứ không phải là những “suy tư thần học chuyên môn”. Vì thế, những từ ngữ, những quảng diễn (chứ không phải là những diễn dịch lô-gíc chặt chẽ) chỉ có mức độ tương đối, nhằm tác dụng gợi ý, đánh động tâm linh, chứ không đem lại những phạm trù tư tưởng chính xác. Mục đích là giúp các tín hữu được thông dự và gần gũi vào những thực tại siêu nhiên, chứ không nhằm tạo thành một hệ thống tư duy thần học. Có thể nói, những trang trên đây thuộc về loại văn “tâm sự thiêng liêng” gần với văn nghệ hơn nghị luận.

1. Những từ ngữ “hiện diện”, “đồng hoá”, “hiện thực”, “tác động”, nói về Đức Mẹ Maria, chỉ có nghĩa biểu tượng để nhấn mạnh ơn siêu nhiên mà Thiên Chúa đặt vào tay Đấng thông ơn Thiên Chúa, chứ không có nghĩa “hữu thể học”, so sánh sự hiện diện của Đức Mẹ như tương tự sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể, chỉ là một cách nói gợi hình cho dễ hiểu, dễ cảm, giúp cho đời sống thiêng liêng được thêm phần sống động, sâu đậm, bền bỉ mong cho tâm hồn được thêm phần sốt sắng và vững chắc, chứ không phải là những khẳng định về tín lý.

2. Trái lại, những ý nghĩ thoạt nghe có thể hiểu như là hạ thấp quyền năng và vị thế của Mẹ Maria cũng vậy, đó chỉ là cách nói để nhấn mạnh tín điều “Nhập Thể”, thật sự “làm người” của Ngôi Hai, để giúp cho tâm hồn cảm nghiệm và sống sự gần gũi thân mật, thiết nghĩa của Tình Yêu Thiên Chúa qua sự chuyển tiếp của Đức Mẹ, theo hai chiều: trên xuống và dưới lên. Như vậy để thấy rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người tới mức tự hạ đến tột cùng. Sự “hạ thấp” ấy thực ra là một sự “nâng cao”. Tình yêu của Thiên Chúa đã cúi xuống trên phận hèn tôi tá như chính lời Đức Mẹ ngợi khen Thiên Chúa.

3. Chủ yếu những trang này không phủ nhận sự cần thiết phải cầu xin về các nhu cầu cần thiết ở trần gian, như cơm ăn, tài sản, tình duyên, sự nghiệp. Nó cũng khẳng định Đức Mẹ thường giúp đỡ con cái mình về các mặt ấy, và Đức Mẹ là người trăm phần trăm nếm đủ mùi cay đắng của cuộc đời trần thế của lớp người phải vật lộn với cuộc sống hằng ngày. Thế nhưng chỉ muốn gợi ý rằng cần phân biệt đâu là chủ yếu, đâu là thứ yếu, thiết lập một nấc thang giá trị đúng đắn và quân bình, hướng thượng chứ không khinh hạ.

4. Nếu ở đây có nhấn mạnh đến phầm động tác chủ động của con người trong mầu nhiệm cứu độ, thì không phải là phủ nhận tính cách “nhưng không” (gratuit) của ân sủng, mà chỉ muốn nhắc lại ơn gọi của con người là những hữu thể có tự do được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài, tức là những chủ thể có ngã vị, có tự do, được mời gọi trở nên cộng tác viên của Ngài, như thánh Augustinô đã nói: “Để tạo dựng nên con, Chúa không cần có con, nhưng để cứu độ con, Chúa cần có con cộng tác”. Thật ra nếu đọc kỹ sẽ thấy rằng, sự cộng tác được trình bày ở đây nhằm vào thái độ chuẩn bị sẵn sàng đón nhận ân sủng ban cho nhưng không, nhất là thái độ “thuận tình”, “phó thác” được biểu lộ trong hai chữ “XIN VÂNG” để cho chính tác động của Thiên Chúa được hoàn toàn có hiệu năng.

5. Trong việc cầu nguyện có một thứ tự trên dưới: thờ lạy, cảm tạ, đền tạ, cầu xin. Những trang này không có ý phủ nhận sự cần thiết của việc “cầu xin”, nhưng chỉ muốn thiết lập lại trật tự trên cho quân bình và trong những điều xin cũng muốn nhắc lại trật tự: xin cái gì cần thiết nhất (Chúa dạy đừng nói nhiều khi con cầu nguyện vì ta chưa xin Cha trên trời đã biết ta cần những gì. Chúa cũng bảo chỉ có một điều cần thiết thôi) và các sự khác sẽ ban thêm sau. Cần nhớ trật tự trước sau ấy.

6. Về các nhân vật chưa được Hội Thánh chính thức phong hiển thánh: bà Martin, ông bà Maritain, Giaxintha, Eve Lavallière, Bênêđicta de La Croix, Charles de Foucauld, Pascal… người viết chỉ nhắc đến như những bậc anh chị đi trước mà chúng ta có thể noi gương và rút ra những bài học bổ ích từ kinh nghiệm sống của các vị ấy như bất cứ tín hữu nào có ít nhiều dấu hiệu có một đời sống đạo đức cao sâu, thế thôi, chứ không phải đặt các vị ấy lên bàn thờ trước quyết định của Hội Thánh. Tuy nhiên hầu hết các vị ấy đều đã có sắc chỉ của Toà Thánh, hoặc của Giáo Hội địa phương bắt đầu việc điều nghiên tra cứu để đi đến việc tôn phong hiển thánh.

Dầu sao, tóm lại, những điều ghi chép trên đây chỉ có tính cách suy niệm riêng tư, và cảm nghiệm chủ quan cá nhân chứ không có cao vọng trình bày chân lý khách quan. Người viết ý thức rằng quyền thẩm định tối hậu và đánh giá khách quan là thuộc về những vị có thẩm quyền trong Hội Thánh phẩm trật do Thiên Chúa thiết lập để bảo toàn tín lý và chân lý chính thống của đạo Mạc Khải, mà người viết luôn một lòng tuân phục trong sự phục thiện hiếu thảo trung thành tuyệt đối.

THAY LỜI BẠT - CHIÊM NIỆM BÊN VỆ ĐƯỜNG

Ngày nay, nhiều giáo dân phàn nàn không có thì giờ cầu nguyện vì phải làm ăn vất vả. Nhiều linh mục tu sĩ than phiền không có thì giờ nguyện gẫm (thường không ít là nửa giờ trong mỗi ngày).

Có lẽ chuỗi hạt Mân Côi sẽ giúp giải quyết khó khăn thực tế ấy, và có thể ảnh hưởng đến đời sống nội tâm. Cái thuận lợi của chuỗi Mân Côi là lần hạt ở đâu cũng được. Cũng không cần phải đọc 50 kinh một lần, mà có thể chia ra 10 lần, 15 lần từ sáng đến chiều tối, mỗi lần 5 hoặc 10 phút là đủ, cộng lại có thể quá nửa giờ.

Ví dụ: sáng dậy, ai cấm vừa vo gạo, vừa bổ củi, vừa giặt đồ… vừa lần hạt. Không cần tay lần hạt, chỉ cần miệng đọc kinh thầm và ngắm. Lúc chờ xe bên vệ đường, lúc đi đến nơi làm việc, lúc nối đuôi mua hàng, thay vì đảo mắt nhìn quanh lơ láo, thay vì vểnh tai nghe chuyện tào lao, hoặc nôn nóng bực bội chuốc mệt vào lòng, lại bị giác quan lôi cuốn cám dỗ lăng nhăng, khiến lòng trí chạy theo chuyện đâu đâu. Thay vì lo buồn tức giận, mộng mơ, ước muốn vớ vẩn, chuốc lấy xốn xang và có nguy cơ sa ngã, thì hãy cầm trí và lần hạt. Ai cấm được, ai ngăn cản được, ai dòm ngó rình mò được.

Ta cũng biết rằng trong những trường hợp vì hoàn cảnh khách quan không sao giữ lễ chúa nhật được, thì lần hạt Mân Côi cũng là một cách tạm thay thế.

Trong bài thơ mở đầu tập này có câu: “Mẹ là Nguyện Đường mầu nhiệm”. Chuỗi hạt Mân Côi có thể ví như ngôi nhà nguyện nhỏ ta mang theo để ta có thể đi vào chiêm ngưỡng Thiên Chúa Tình Yêu, nơi nào lúc nào cũng được. Vả chăng Đức Mẹ thường được ví như Đền Thờ Thiên Chúa, là tháp ngà báu, là đền vàng, là lâu đài Đavít, là ngôi thánh đường cho ta ẩn náu mà cầu nguyện bất cứ nơi nào lúc nào.

Do đó dù bận rộn đến đâu, cộng lại cả ngày thế nào cũng được tối thiểu là nửa giờ cầu nguyện và nguyện gẫm. Có thể đó là cách thực hiện điều mà nhà bác học Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”, là cách chiêm niệm dành cho con người thế kỷ 20, thế kỷ của “chụp giật”, “đua chen”, “hối hả”, “hấp tấp”, lôi cuốn mọi người như cơn lốc lôi cuốn lá rụng tả tơi vậy.

Điều quan trọng là ta có thực sự muốn và thực sự cố gắng không? Hay ta lại lười biếng rồi đổ thừa cho hoàn cảnh, cho cái này, cái nọ; theo kiểu Ađam đổ lỗi cho Eva, Eva lại đổ lỗi cho con rắn. Con người thường rất khéo đổ thừa để tự biện minh. Đừng bao giờ quên rằng trong những thế kỷ đầu của Hội Thánh, phần đông tín hữu thuộc giai cấp nô lệ, nghĩa là những người luôn luôn bị kìm kẹp, bị kiểm soát vô cùng chặt chẽ và lao động quần quật suốt ngày đêm dưới cặp mắt cú vọ của những tên đốc công giám sát cực kỳ dã man tàn ác, hở một giây là đánh đập tàn nhẫn. Thế mà các tín hữu ấy có một đời sống rất thánh thiện, hầu như luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa, và nhất là như luôn chờ đợi Chúa đến. Đời chúng ta vất vả so với đời các bậc cha ông ấy có thấm vào đâu. Nên biết như thế, nhớ như thế và tự suy gẫm kết luận ấy.

Tất nhiên ta cũng không quên rằng, đời người thợ mộc Giêsu thành Nagiarét và bà Mẹ là quả phụ Maria cũng không nhàn hạ tĩnh mịch lắm đâu. Chúa Giêsu thường lẩn trốn vào nơi vắng vẻ lúc ban đêm để cầu nguyện vì chắc hẳn ban ngày Ngài bận rộn lắm. Còn “hầu tước” Charles de Foucauld, nhà chiêm niệm vĩ đại của thế kỷ thì đã rời bỏ dòng kín khổ tu La Trape để sống đời Nagiarét giữa lòng đám quần chúng lao động nghèo hèn, vất vả đầu tắt mặt tối, lam lũ suốt ngày. Có khi còn làm cả ca đêm nữa. Đức Hồng Y Danielou có nói rằng thế kỷ 20 là thời đại mà Thánh Antôn ẩn tu rời bỏ (hoặc bị trục xuất khỏi) hoang địa, hạ sơn sống đời chiêm niệm giữa lòng quần chúng lao động giữa các đô thị công nghệ hoá đầy ắp tiếng động và tràn ngập xê dịch chớp nhoáng.

Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương

URL: http://danchuausa.net/duc-me/chuoi-man-coi-trong-doi-song-chiem-niem-phan-vi-y-nghia-cuoc-doi-trong-chuoi-hat-man-coi/