Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Mẹ Garabandal: Phỏng vấn Ðức Giám mục del Val Gallo

§ Hồng-Việt

"Cách chắc chắn tôi coi những thông điệp ở Garabandal là quan trọng! Bởi vì bản chất nó quan trọng!... Ðó là điều quan trọng cho các Kitô hữu sống đúng theo thông điệp Mẹ đã chỉ dạy" (Ðức Giám mục del Val Gallo vào năm 1992)

H. Cái gì đã làm ÐC quyết định trở thành linh mục?

Ð. Khi tôi mới 4 tuổi, cha xứ đã hỏi tôi muốn làm linh mục không? Tôi đã trả lời “có” như cách các trẻ khác đều trả lời. Nhưng khi tôi đươc 9 tuổi, một cô em của cha tôi là nữ tu thụôc dòng Nữ tử bác ái chết trong sự vâng lệnh của đời thánh hiến  bởi vì thời kỳ đó đã xảy ra một cuộc dịch tễ mà nó lây sang các trẻ em với nhau và mặc dù vậy sơ vẫn tiếp tục chăm sóc các em bệnh hoạn. Sơ được căn dăn kỹ càng hãy cẩn trọng vì sẽ có thể bị lây qua và mất mạng, nhưng sơ trả lời “Cả đời tôi đã thánh hiến cho Chúa bằng công việc phục vụ kẻ nghèo khó và tôi không thể nào ngừng được khi họ cần tôi hơn bao giờ hết và tôi sẽ tiếp tục công việc này” Cuối cùng sơ đã nhiễm phải chứng dịch này và qua đời. Chuyện này được mang ra bàn luận trong gia đình khi tôi 9 tuổi và nó đã làm tôi khâm phục. Cử chỉ cao cả của cô tôi (là một nữ tu) đã làm, tôi suy nghĩ “Tôi có dám làm việc này nếu tôi là môt linh muc không?” Ðiều này đã làm tôi quyết định muốn trở thành linh mục khi mới 9 tuổi. Khi 12 tuổi tôi đã nhập viện đại học giáo hoàng tại Comillas đến khi tôi trở thành linh mục năm 1944.

H. Lúc tuổi nào ÐC đươc chịu chức … bởi ai và ở đâu?

Ð. Tôi được chịu chức dưới tay Ðức tổng giám mục Parado của tổng giáo phận Granada khi tôi 28 tuổi. Ngài mất đã lâu rồi. Tôi đươc chịu chức ngay tại nhà thờ của đại học viện giáo hoàng tại Comillas.

H. Lần đầu tiên ÐC tới Garabandal khi nào và lý do?

Ð. Tôi tới đó 8 ngày sau lần hiện ra lần đầu. Tôi tới đó vì ÐC Doroteo Fermandez  gửi tôi tới, lúc đó ngài là trưởng ban về mục vụ tông đồ. Vì tôi là linh mục ngài tin tưởng,  ngài muốn tôi tới đó để quan sát và tường trình lại cho ngài những gì tôi nghĩ và thấy. Tôi đã đến đó 8 ngày sau lần hiện ra lần thứ nhất vì ÐC gửi tôi đến.

H. Ai là vị giám mục địa phận thời bấy giờ?

Ð: Ðức cha Doroteo Fernandez.

H. ÐC đã tới ngôi làng này bao nhiêu lần trong khi các cuôc hiện ra đang tiếp diễn?

Ð. Tôi đến đó 2 lần nữa sau lần đức giám mục gửi tôi đi.

H. ÐC có thấy tận mắt khi các em ngất trí không? Nếu có, xin ÐC cho biết ngài đã nghe và thấy gì cùng cảm nghĩ của ÐC?

Ð. Có, có, tôi có chứng kiến. Tôi thấy các em đang trong cơn ngất trí. Nó còn đươc gọi là một cuộc xuất thần. Tôi tin đây là một cuộc xuất thần nhưng không sâu thẳm như người ta nghĩ vì các em cứ vào các cuộc ngất trí rồi lại ra khỏi các cuộc ngất trí. Tôi tin rằng đây là những cuôc xuất thần và điều này làm nhiều người ngac nhiên và tin rằng có những sự siêu nhiên trong đó. Cảm nghĩ của tôi chỉ như  là một người chứng kiến. Chúng ta chờ xem, chờ xem những tiếp diễn bởi vì những việc này chúng ta không thể hấp tấp được.

H. Khi nào ngài đuợc cử tới giáo phận Santander? Ðây là giáo phân đầu tiên khi ÐC làm giám mục phải không?

Ð. Tôi được cử tới giáo phận ngày 4/12/1971 và nhậm chức ngày 16/1/1972.  Ðây là giáo phân đầu tiên và cũng là giáo phận cuối cùng tôi cư  trú. Tôi đã ở giáo phận này 20 năm. Trước đó tôi ở Jerez de la Frontera vùng Cadiz thuôc giáo phận Sevilla, tôi đươc trao việc cai quản vùng Cadiz bởi đức hồng y của địa phận Sevilla và thi hành tại đó như những giám mục khác mà hôm nay nó đã trở thành một giáo phận.

H. Tính từ bắt đầu khi có tin các cuộc hiện ra, đã có bao nhiêu giám mục trước ngài?

Ð. Nhiều lắm. Rất nhiều nếu chúng ta kể cả giám mục và những vị giám quản bởi vì trong những năm này, có rất nhiều sự thay đổi trong giáo phận Santander. Gồm ÐC Doroteo Fernandez, Eugenio Beitia, Vicente Puchol, Enrique de Cabo, thừa quyền giám mục nhưng chỉ là giám quản, rồi ÐC Jose Maria Cirarda sau đó ngài coi giáo phận Bilbao như là giám mục phó và giám quản, một giám mục khác tên Rafael Torrija de la Fuente, rồi tôi nhậm giáo phận năm 1972.

H. Có đúng là tất cả các giám mục, chỉ ngài là đã được chứng kiến các em trong cơn ngất trí không?

Ð. Tôi nghĩ là như vậy. Tôi nghĩ tôi là người duy nhất. Tôi có nghe nói các em có ngất trí trước sự hiện diện của ÐC Pulcho nhưng tôi không dám chắc. Tôi vẫn nghĩ tôi là người duy nhất đước thấy những cuôc ngất trí này.

H. Có bao giờ ÐC nghĩ rằng Chúa đã sắp đặt cho ngài trong trương hợp duy nhất này không?

Ð. Tôi luôn cố gắng phó thác trong bàn tay Thiên Chúa. Tôi luôn cô gắng bất kể trong hoàn cảnh khó khăn hay hoan lạc, và việc hiện ra tại Garabadal thì có cả hai: khó khăn và hoan lạc.

H. Thời điểm nào ÐC đã bỏ viêc hạn chế, mà các giám mục tiền nhiệm đã ra lệnh cho các linh mục (liên hệ tới cuộc hiên ra tai Garabadal) và tại sao?

Ð. Tôi không nhớ rõ chính xác ngày tháng. Việc này được làm từng bước một. Tôi đã thông báo các cha xứ nên bắt đầu huỷ bỏ việc hạn chế này và rồi nó đã được công bố rộng rãi. Tôi không nhớ rõ chính xác ngày tháng. Tôi nghĩ chừng 6 năm trước khi tôi về hưu vào tháng chín năm ngoái.

H. Những cuộc hiện ra tai Garabadal có bao giờ bị phản đối bởi giáo hội không?

Ð. Không, các giám mục tiền nhiệm đã không công nhận các cuộc hiện ra là siêu nhiên nhưng không chống lại, và từ ngữ “phản đối” này chưa bao giờ được dùng.

H. Thời điểm nào ÐC đã mở lại cuộc điều tra về các cuôc hiện ra và ai là người điều nghiên? nó đã được tiến hành thế nào và khi nào sẽ được kết thúc?

Ð. Việc này đã hoàn thành vào tháng 4/1991 trong một cuộc hội ngộ chúng tôi tổ chức tại Madrid nhưng không biết được khởi sư chính xác vào ngày nào. Nó được khởi sự vào khoảng 6 năm trước, bằng cách thu lượm các dữ kiện, tin tức đây đó. Từ khi khởi sự,  chúng tôi đi từng bước một vì vậy đã mất 6 hoăc 7 năm trước khi cuộc điều tra hoàn tất. Trước đó tôi đã muốn làm và dùng những gì các giám mục khác đã làm. Họ đều từ chối. Sau đó tôi ý thức rằng chính tôi nên làm những công viêc này Chính tôi phải làm công việc điều tra này bởi vì trách nhiệm đòi buộc chính tôi phải lo viêc này vì vây tôi đã làm. Tôi thiết nghĩ đây là một việc hệ trọng đã xảy ra tai Garabandal. Chính vì việc này quá nghiêm trọng nên tôi đã đích thân tra cứu những sự việc đã xảy ra tại Garabandal.

H. Thưa kết quả ra sao?

Ð. Kết quả đã được gửi tới toà thánh, tới thánh bộ Ðức tin. Ðó là nơi các tài liệu như thế này được tồn trữ. Tài liệu này đã đươc trao cho đức hồng y Ratzinger.

H. Những thông điệp Garabandal có phù hợp với thần học và giáo huấn của giáo hội Công giáo không?

Ð. Tôi cho là có. Phù hợp với thần học. Nhưng có một vài chi tiết đã làm tôi rất suy tư thí dụ như câu sau: “Nhiều hồng y, giám mục trên đường đi tới đường mất linh hồn” với tôi điều này có đôi chút quá nặng. Các thông điệp không nói điều gì sai ngược với tín lý của giáo hội cả.

H. Khi nào và tại sao ÐC về hưu?

Ð. Tôi vê hưu vì tuổi tác. Giáo hội đòi buộc các giám mục trên toàn thế giới, tổng số trên 4000 vị, khi gần tới tuổi 75, phải viết thư đệ trình lên Ðức Thánh Cha cho ngài biết ngày 75 năm tuổi của chúng tôi để ngài sắp xếp các cuôc thay thế. Tôi đã làm việc này. Sinh nhật thứ 75 của tôi đã vào ngày 13/6 năm ngoái, tôi đã vê hưu vào ngày 29/9.

H. ÐC có hoạch định gì đặc biệt cho tương lai?

Ð. Có chứ. Việc đầu tiên là cầu nguyện nhiều hơn khi xưa vì bây giờ tôi có nhiều thời giờ hơn. Ðó là việc trước tiên, tận lực nhiều giờ vào việc cầu nguyện. Kế tiếp, là giúp đỡ những người yếu kém. Tôi đã viết sách trước khi thành giám mục và sau khi thành giám mục vì có quá nhiều việc mà tôi không có giờ để viết sách nữa. Ðể làm nhiêm vụ một vị giám mục tốt lành, bạn không có giờ để viết lách nữa vì có quá nhiều viêc phải làm. Ðó là hoạch định thứ ba của tôi. Trong thời kỳ cai quản địa phận, tôi đã không viết sách vì nếu làm viêc này tôi sẽ không thể chu toàn nhiệm vụ được. Tôi  thường nghĩ rằng khi về hưu tôi sẽ trở lại công việc viết sách. Tôi đang viết một cuốn sách mà sẽ mất chừng 1 năm rưỡi mới hoàn thành được. Hiện thời tôi đang suy nghĩ về tựa đề của cuốn sách sẽ là. “Ðức Kitô của năm 2000.” Cuốn sách sẽ viết về văn hoá Âu châu ngày nay và các văn hoá này ảnh hưởng tới đời sống Kitô hữu của chúng ta thế nào và dưới nền văn hoá này, một tín hữu Kitô phải đáp trả tiếng Chúa và niềm phục vụ tha nhân ra sao.

H. Là “Mẹ của Ðấng Cứu Thế” và “Mẹ Giáo Hội” ảnh hưởng gì ÐC tin rằng Mẹ Chí Thánh của chúng ta sẽ có trên đời sống của nhân loại?

Ð. Ðể trả lời câu hỏi này, ý nghĩ đầu tiên chợt đến trong trí óc tôi là Ðức Hồng Y Wyszynky bên Bồ đào Nha. Bạn biết ngài là một hồng y ở trong môt thời cực kỳ khó khăn. Trong chế độ cộng sản, giáo hội bí cấm cách và giết hại, mất hết sự tự do, thời điểm tối đen nhất của ngài. Ðức Hồng Y Wyszynky hiến dâng đoàn chiên cho Me Chí Thánh, Ðức Mẹ Czestochowa. Trong thời gian cực kỳ đó, trong niềm tin, ngài đã tìm thấy chỗ nương tựa nơi  Mẹ chí Thánh bởi vì  Mẹ là Ðấng bảo trì đức tin. Ðể trả lời câu hỏi này, tôi có thể đồng dạng như Ðức hồng y Wyszynsky vì tôi nghĩ giống như ngài là Ðức Mẹ Chí Thánh là đấng sẽ bảo toàn niềm tin.

Cuối cuộc phỏng vấn, ÐC đã thêm những lời này:

Tôi rất cám ơn về cuộc phỏng vấn này, nó đã mang lại nhiều ý nghĩa. Câu hỏi cuối cùng tới ÐC del Val là:

H. ÐC có nghĩ những thông điệp là phần quan trọng nhất tại Garabandal không?

Ð. Tôi chắc chắn phần thông điệp là quan trọng! Bởi vì bản chất quan trọng của nó. Nó cũng tương tự như các thông điệp tai Lộ-đức và Fatima. Nó quan trọng cho tất cả chúng ta là những Kitô hữu hãy sống theo lời Mẹ chỉ dạy trong thông điệp. Nếu quý vị cho là Mẹ đã ban cho những thông điệp này … nhưng tôi(trong vai trò một Giám mục) không có thể khẳng định rằng Mẹ đã ban cho, vì như vậy tôi xác nhận việc Mẹ hiên ra là đúng, và tôi không thể xác quyết như vây được bởi vì Giáo hôi chưa có công nhận. Giáo hội là nơi có những công bố sau cùng.

Dịch thuật từ mạng www.garabandal.org

Hồng-Việt

Tags ·

Đọc nhiều nhất Bản in 26.02.2008. 09:10