Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Đồng hành với dân tộc?

§ Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, ofm

Thư chung của HĐGM/VN năm 1980

Sau biến cố 1975, các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo đều kêu gọi các tín hữu bình tĩnh, chấp nhận hoàn cảnh mới, chấp nhận chế độ mới, để cùng với đồng bào cả nước xây dựng cuộc sống mới. Hai khuôn mặt nổi bật là đức cha Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám mục Huế, và đức cha Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám mục Sàigòn, những vị lãnh đạo theo tinh thần Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Đức tin của các ngài, lòng yêu nước và óc thực tế của các ngài, chính là điểm tựa cho người tín hữu đang đối mặt với bao nỗi khó khăn, bao nhiêu đau khổ trong tình thế mới.

Đến Đại hội các Giám mục năm 1980, các Giám mục đã ra thư chung kêu gọi các tín hữu sống phúc âm giữa lòng dân tộc, hay đồng hành với dân tộc. Văn kiện này được xem như bản Định hướng cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Nếu đối với mọi người, dân tộc và chế độ là hai phạm trù khác nhau, thì riêng đối với người cộng sản, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, vì thế nên khi sử dụng cụm từ đồng hành với dân tộc, mỗi bên nghĩ một kiểu.

Đến cuối thập niên 80, nhất là từ khi nảy sinh xung đột giữa Nhà Nước và Giáo Hội nhân vụ phong thánh, và đặc biệt hơn nữa, đến giai đoạn Việt Nam đi vào nền kinh tế thị trường với cái đuôi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kéo theo hậu quả là giai cấp cán bộ có chức có quyền ngày càng giàu sụ một cách bất chính trong một thời gian kỷ lục, giữa lúc đa số người dân ngày càng nghèo đi, thì cụm từ đồng hành với dân tộc đã bị bốc hơi từ lúc nào rồi. Cao điểm là vào lúc dân oan hết lớp này đến lớp khác nằm la liệt trên hè phố để đòi công lý thì Giáo Hội Công Giáo hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Ai cũng ngạc nhiên trước thái độ thờ ơ này. Và không thiếu người mạnh mẽ chỉ trích Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Thư ngỏ của HĐGM/VN năm 2002

Sau mỗi Đại Hội Thường Niên, chắc chắn không thiếu những kiến nghị các Giám mục gửi lên Nhà Nước. Vì nội dung các kiến nghị đó không được thông tri cho cộng đồng dân Chúa, nên không ai biết các ý kiến đóng góp đã được tiếp nhận như thế nào, và các vấn đề yêu cầu cứu xét đã được giải quyết đến bao nhiêu phần trăm.

Tới Đại Hội 2002, HĐGM/VN đã gửi đến “Quý vị lãnh đạo các cơ quan lập pháp của Nhà Nước Việt Nam” một văn kiện đặc biệt quan trọng (xem nội dung đính kèm sau đây). Không rõ văn kiện đã được hình thành như thế nào, ai (hay những ai) là tác giả đầu tiên của bản văn, chúng ta không biết. Nhưng không sao, vì điều quan trọng là bản văn đã được HĐGM/VN chấp thuận.

Câu hỏi đặt ra là các đối tác, tức là Quốc Hội và các Hội Đồng Nhân Dân đã tiếp nhận văn kiện đó như thế nào. Có thể là đã có một hoặc một số văn thư cám ơn theo phép lịch sự. Nhưng hình như cũng chỉ bấy nhiêu thôi. Các phương tiện thông tin nằm trong tay Nhà Nước thì tuyệt đối không đả động gì đến văn kiện này, và do đó rất ít người được biết. Giá mà văn thư đó được phổ biến rộng rãi, ví dụ được đọc trong các nhà thờ thì người ta không còn lý do để chê trách lãnh đạo Công Giáo thờ ơ trước các vấn đề nhức nhối của xã hội.

Trong lá thư ngỏ nói trên, khi phản bác cơ chế xin-cho, các Giám mục không chỉ nói thay cho tập thể Công Giáo vốn chỉ chiếm từ 7 đến 8 phần trăm dân số, nhưng có thể nói là các ngài đã diễn tả được nguyện vọng sâu xa thầm kín của hơn 80 triệu người Việt Nam không phải là đảng viên cộng sản, những người dân muốn nói nhưng không nói được. Và chính vì vậy mà khi phản bác cơ chế xin-cho qua lá thư ngỏ của HĐGM/VN thì tập thể Công Giáo đã thực sự đứng về phía đại đa số người dân đang bị bóc lột, đang bị chèn ép. Có thể nói qua lá thư vô tiền khoáng hậu đó, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã thể hiện ước muốn đồng hành với dân tộc.

Sau thư ngỏ

Khi đưa ra những ý kiến nhằm xoá giảm những khuyết tật của xã hội và phát huy những giá trị nhân bản làm cho con người ngày càng trở nên người hơn, các Giám mục đã có thái độ thẳng thắn chưa từng thấy đối với Nhà Nước. Còn việc Nhà Nước độc tài toàn trị không đếm xỉa gì đến các ý kiến xây dựng kia thì chẳng có gì phải làm ta ngạc nhiên. Điều đáng ngạc nhiên là sau văn thư nói trên, trong nhiều năm liên tiếp, ta không thấy một động thái nào khác từ phía HĐGM liên quan đến các vấn đề xã hội, ít là một cách công khai.

Cầu nguyện để đòi đất

Tuy nhiên, làm sao Giáo Hội có thể dửng dưng nhất là trong một xã hội thối nát và bất công như xã hội chúng ta đang sống? Vấn đề là bắt đầu từ chỗ nào. Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giu-se Ngô Quang Kiệt là người đã có sáng kiến phát động chiến dịch cầu nguyện để đòi lại thửa đất Toà Khâm Sứ cũ. Cùng lúc, phong trào được phát động mạnh mẽ tại Giáo xứ Thái Hà do các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đảm nhiệm. Chỉ cần một que diêm là rừng cây khô bốc lửa. Đây là một hiện tượng chưa từng xảy ra dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam. Sự việc lại xảy ra ngay giữa lòng thủ đô, lôi kéo sự chú ý của dân Hà Nội cũng như của phóng viên nước ngoài. Điều đáng chú ý là lời mời gọi của Đức Tổng Giám Mục được đón nhận hết sức nồng nhiệt, không chỉ tại Hà Nội, mà là khắp nơi trong cả nước, đặc biệt trong khắp Giáo Tỉnh miền Bắc, đồng thời lời mời gọi đó lan toả ra nhiều nơi khác nữa ở Bắc Mỹ, nhiều nước Âu Châu và Úc Châu.

Mặc dù báo đài Nhà Nước coi như không có các sự kiện này, nhưng với công nghệ thông tin của đầu thế kỷ 21, không gì có thể che giấu được. Chính nhờ các bản tin cập nhật từng ngày và có lúc từng giờ của VietCatholic mà mọi người trên thế giới đều có thể theo dõi những gì đang diễn ra tại Toà Khâm Sứ, tại Giáo xứ Thái Hà, và tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn.

Mục tiêu tối hậu

Phát động một phong trào, phải bắt đầu từ một nơi nào đó, từ một việc gì đó. Giả sử vấn đề đơn giản chỉ là đòi lại một hai miếng đất của Giáo Hội Công Giáo thì người ngoài Công Giáo chẳng có lý do gì để phải quan tâm, và giải quyết vấn đề cũng không phải là chuyện khó đối với Nhà Nước. Thế nhưng ngay từ đầu, trong thánh lễ Giáng Sinh 2007 tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội, đức cha Ngô Quang Kiệt đã minh định: muốn có hoà bình bền vững, cần thiết phải thực thi công lý. Còn tại Sàigòn, trong một thánh lễ cầu nguyện cho Hoà Bình và Công Lý với quãng 4000 người tham dự tại nhà thờ Kỳ Đồng đêm 11-01-2008, vị giảng thuyết là linh mục Vũ Khởi Phụng đã nói rõ mục tiêu (và từ đó được nhắc lại nhiều lần trong các buổi cầu nguyện tương tự): mảnh đất tuy quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là mảnh đất tâm linh. Mục tiêu nhắm tới là công lý và hoà bình. Và như thế là các buổi cầu nguyện tại Toà Khâm Sứ cũ và Giáo xứ Thái Hà cũng như tại các nơi khác, đã đưa người Công Giáo đến với người nghèo, đến với dân oan mất ruộng mất vườn đang mỏi mòn đi tìm công lý. Tuy không có những lời tuyên bố công khai, cuộc đấu tranh này đã thật sự đưa cộng đồng Công Giáo đồng hành với dân tộc. Điều này càng rõ ràng hơn nữa khi Đức Tổng Giám Mục Hà Nội tuyên bố trước mặt UBND Hà Nội rằng tự do tín ngưỡng không phải là ân huệ xin-cho, nhưng là quyền. Điều này có nghĩa là việc đòi lại một vài miếng đất chỉ là khởi đầu cho tiến trình đòi nhân quyền, đòi tự do dân chủ. Khi khẳng định như thế, Đức Tổng Kiệt chỉ lặp lại nội dung của Thư Chung HĐGM/VN đã gửi Nhà Nước sau Đại Hội năm 2002 như đã nói trên đây. Điều đáng tiếc là trong văn thư trả lời Chủ tịch HĐND/Tp Hà Nội sau Đại Hội các Giám mục tại Xuân Lộc 2008 vừa qua, điểm trùng hợp quan trọng này đã không được nhắc tới.

Lửa Thái Hà tiếp tục cháy

Nay thì hai mảnh đất tranh chấp đã thành hai công viên. Nhưng ngọn lửa tranh đấu đã không vì thế mà tàn lụi. Ở trong nước cũng như ở nước ngoài, các buổi cầu nguyện cho Hoà Bình và Công Lý tại Việt Nam vẫn tiếp tục. Ở trong nước, sau Hà Nội, không nơi đâu sôi động bằng giáo phận Vinh. Lý do là ngay từ đầu, khi cùng với một nhóm linh mục đến Thái Hà hành hương, đức cha Cao Đình Thuyên, Giám mục Giáo phận Vinh đã dõng dạc tuyên bố: “Việc của Thái Hà cũng là việc của Vinh, của cả Giáo Hội Việt Nam… Do đó chúng tôi đến đây để cầu nguyện cùng anh chị em cho công lý và hoà bình…” Rồi kể từ lời tuyên bố đó, khắp nơi trong giáo phận, hết nhà thờ này đến nhà thờ khác, các tín hữu đốt nến cầu nguyện cho Công Lý và Hoà Bình. Theo bản tin của VietCatholic ngày 01-11-2008, tại nhà thờ Kẻ Gai, thuộc giáo hạt Cầu Rầm, trước giờ chầu Thánh Thể, Cha xứ đã trình chiếu lại các hình ảnh của Toà Khâm Sứ với lời phát biểu của Đức Tổng Kiệt (tại trụ sở UBND Tp. Hà Nội ngày 20-09-2008), sau đó là một số hình ảnh nơi này nơi kia trên thế giới lên án Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, cũng như những cuộc biểu tình phản đối Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến thăm nước Úc gần đây. Còn ở Thuận Nghĩa, làng tôi (thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An), Cha xứ đã có sáng kiến photo bài phát biểu của Đức Tổng Kiệt để các em học sinh có thể đưa cho thầy cô hay các bạn khi nghe người ta xuyên tạc lời Đức Tổng.

Kết luận

Sống trong một xã hội đầy dẫy những dối trá, những thối nát bất công, ai lại không muốn thay đổi ! Trong khi dân Mỹ vốn đa số là người da trắng, đã bầu vào chức vụ Tổng Thống kiêm Tổng Tư Lệnh một người da đen 47 tuổi, con một người Hồi Giáo, kinh nghiệm chiến trường không có, kinh nghiệm chính trường chưa nhiều, chỉ vì người dân Mỹ thấy rằng đã đến lúc phải thay đổi, chỉ vì người dân Mỹ tin vào khả năng, vào bản lĩnh của người mình chọn, và đã bầu với một đa số phiếu áp đảo. Trong khi đó tại Việt Nam ta, vốn “dân chủ gấp triệu lần so với các nước tư bản”, thì nguyên việc để cho dân bầu chức Chủ tịch xã thôi chứ chưa phải huyện hay tỉnh, mà ý tưởng mới manh nha được một hai tuần đã bị Quốc hội đánh bại. Và ai cũng biết là do chỉ đạo của đảng cộng sản. Vậy thì muốn có dân chủ, muốn có tự do (trong đó có tự do tôn giáo), chờ mong đảng cộng sản một ngày đẹp trời nào đó đi ban phát những ân huệ đó cho hơn 80 triệu người Việt Nam không thuộc đảng cộng sản, chỉ là chuyện mơ tưởng hão huyền. Đòi lại tự do, dân chủ, là trách nhiệm của mỗi người Việt Nam. Và hình như trong tình hình hiện tại, không có tập thể nào có những yếu tố thuận lợi hơn là Giáo Hội Công Giáo. Vấn đề ở chỗ: chúng ta có thực lòng muốn đồng hành với dân tộc hay không.

Sài-gòn, ngày 12 tháng 12 năm 2008
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM

Lm Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM

- Thư Ngỏ của Hội Đồng Gíam Mục Việt Nam, năm 2002

Đọc nhiều nhất Bản in 11.12.2008. 12:09