Dân Chúa ? | Liên Lạc | [Valid RSS] RSS Feeds


Tháng 10/2020

Bài Mới

Sách Online

Mục Lục Sách »

pierre-julien_eymard_pk1.jpg
Người say yêu Thánh Thể
imitation3.jpg
Gương Chúa Giêsu
eucharist.jpg
Suy niệm trước Thánh Thể

Công Đồng Toàn Thể Úc 2020: Một số điểm trong Phúc Trình Sau Cùng của giai đoạn Lắng Nghe và Đối Thoại: Truyền chức thánh

§ Vũ Văn An

Truyền chức thánh

Có lẽ phạm vi thảo luận lớn nhất trong chủ đề bí tích là Bí tích Truyền chức thánh. Có một nhóm lớn khá nhiều người có ý kiến và khuyến cáo nên có các thay đổi đối với các khía cạnh khác nhau của bí tích này. Các tiết sau đây sẽ thăm dò những chủ đề này một cách chi tiết hơn.

Kết liễu việc độc thân / cho phép các linh mục kết hôn

Một trong những chủ đề thường xuyên nhất được nêu ra là việc sống độc thân của linh mục. Có một sự đồng thuận mạnh mẽ là điều này nên chấm dứt và các linh mục nên có cơ hội kết hôn nếu họ muốn. Nhiều người tham gia ủng hộ điều này vì lo ngại về sự thiếu hụt các linh mục trong nước và coi đây là một cách để giải quyết vấn đề này. Họ cũng nhận ra sự kiện này: có nhiều người đàn ông đã bước vào chức tư tế trong quá khứ và sau đó đã bỏ đi để kết hôn.

Ý niệm nguyên thủy về việc linh mục được để riêng ra để thực hiện một công việc nhờ việc sống độc thân tất nhiên là một ý niệm tuyệt vời, và là một ý niệm mà một số người được gọi đạt tới. Tuy nhiên, lời kêu gọi làm linh mục và lời kêu gọi sống độc thân cần được tách rời ra để mỗi cuộc sống độc thân và hôn nhân có thể là lựa chọn cho một người đang xem xét ơn gọi.

Những người khác tin rằng quy luật độc thân đã lỗi thời và cần phải thay đổi cho phù hợp với thời hiện đại. Họ tin rằng từ bỏ hôn nhân là điều quá đáng để đòi hỏi nơi một người đàn ông hoặc một người đàn bà trong thời điểm hiện tại. Một số người coi việc độc thân là nguyên nhân của việc giáo sĩ lạm dụng tình dục gần đây trong khi những người khác thì nghĩ khác.

Quy luật độc thân không được Chúa Kitô đưa ra nhưng mãi về sau trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo. Điều đó quá cổ xưa và gây đau khổ.

Thiên Chúa đang yêu cầu chúng ta quay trở lại với thời Giáo Hội sơ khai khi những người kết hôn là linh mục, giám mục và giáo hoàng. Kế hoạch của Thiên Chúa đối với con người là muốn họ bình thường có bạn tình (xem Sách Sáng Thế). Mặc dù độc thân không phải là nguyên nhân của việc lạm dụng trẻ em trong Giáo Hội, nhưng nó giúp tạo ra một môi trường nơi đàn ông ở một mình và không có phụ nữ bên cạnh để cân bằng hoặc đối đầu với họ. Sống độc thân là tuyệt vời khi tự do lựa chọn, dù trong một thời gian.

Một số người nhấn mạnh rằng thực hành của Giáo hội trong lĩnh vực này không nhất quán với tín lý của mình về hôn nhân và nó đặt ra một tiền lệ nguy hiểm khuyến khích việc kiểm soát quyền lực và làm các giáo sĩ xa lạ đối với thực tại của nhu cầu gia đình và ngăn các linh mục tiếp xúc với các nhu cầu thực sự của người ta. Một số người tham gia tin rằng nhu cầu của các linh mục phải được xem xét và có một người phối ngẫu sẽ là một hỗ trợ tuyệt vời cho họ. Một số người cũng cảm thấy rằng những lập luận chống lại việc nới lỏng quy luật vì lợi ích của gia đình là vô căn cứ vì các gia đình hiện đại đã nhanh chóng thích nghi với nhu cầu của các thành viên của họ, và phụ nữ và đàn ông bước vào các liên hệ biết rõ người bạn đời của họ cũng như những mong đợi và ưu tiên của họ trong hôn nhân.

Có một người phối ngẫu sẽ cung cấp cho các linh mục sự hỗ trợ và tình đồng hành và làm giảm bớt sự cô đơn.

Hỗ trợ thêm cho các linh mục. Họ có quá nhiều trách nhiệm, với sự giúp đỡ họ có thể tập trung hơn vào các vấn đề tâm linh. Các linh mục nên được phép kết hôn. Họ có một công việc khó khăn và sẽ rất hữu ích khi có một bạn để chia sẻ cuộc sống.

Ngoài ra, những người tham gia thấy được lợi ích của vấn đề này về mặt mục vụ nơi họ tin rằng một linh mục đã kết hôn có thể liên hệ tốt hơn với giáo dân và cung cấp lời huấn đạo và lời khuyên trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình tốt hơn so với một linh mục sống độc thân.

Các linh mục nên được phép kết hôn để tiếp xúc với xã hội và không sống một cuộc sống biệt lập bên trong nhà xứ chỉ trà trộn với những người đi nhà thờ. Người ta sẽ cảm thấy được nối kết nhiều hơn với Giáo hội nếu họ có thể nói chuyện với một linh mục có kinh nghiệm gia đình, v.v... Các gia đình cũng có thể nối kết nhiều hơn với linh mục.

Hãy cho phép các linh mục kết hôn và sinh con; không có gì có thể bổ sung và tiếp thêm sinh lực cho giáo xứ địa phương hơn là sự hiện diện của một linh mục và gia đình của ngài dẫn đầu cộng đoàn. Hãy tưởng tượng vai trò làm gương này sẽ mạnh mẽ như thế nào ở cấp giáo xứ địa phương. Các giáo dân sẽ hỗ trợ họ về tài chính.

Một số người tham gia cũng muốn việc nới lỏng luật độc thân được mở rộng cho tất cả các tu sĩ nam nữ.

Hãy chăm lo cho các tu sĩ của chúng ta – Liệu Giáo hội có thể xem xét thay đổi luật lệ của mình (thích nghi với thời hiện tại) cho các linh mục, các tu huynh và nữ tu của chúng ta và xem xét khả năng cho phép họ kết hôn hay không?

Mặc dù có nhiều ý kiến muốn chấm dứt tình trạng độc thân, nhưng cũng có một số người tham gia nhấn mạnh rằng họ muốn các quy luật được giữ nguyên. Một lý do cho điều này là vì họ tin rằng việc thay đổi các quy luật sẽ không làm gia tăng sức sống của Giáo hội.

Nhiều người cảm thấy rằng cho phép các linh mục kết hôn hoặc các nữ linh mục là một bước tích cực. Tôi đã nghe nhiều người tốt lành và thánh thiện phác thảo cả hai phía của lập luận. Tuy nhiên, tôi cảm thấy điều sai lầm là nghĩ rằng việc này sẽ lấy được bất cứ người trở lại đạo nào hoặc đưa người ta trở về với Bí tích Giải tội và Bí tích Thánh Thể. Khi những người bạn Công Giáo bỏ đạo đề cập đến sự cần thiết của việc các linh mục kết hôn, tôi hỏi họ xem họ có trở lại tham dự Thánh lễ hay không nếu việc này xảy ra và tôi luôn gặp những ánh mắt trống rỗng.

Những người khác quan tâm đến việc một linh mục sẽ đối phó ra sao với việc cân bằng các nhu cầu của gia đình ngài và các nhu cầu của cộng đồng. Lại có những người khác cảm thấy rằng xem luật độc thân như một điều áp chế tự nó đã là một ý niệm không chính xác và đối với nhiều linh mục, cuộc sống độc thân của các ngài là một sự hy sinh cho Thiên Chúa. Đối với phần đông, không thay đổi quy luật có nghĩa là kiên định đối với giáo huấn truyền thống của Giáo hội về vấn đề này.

Phong trào thúc đẩy việc cho phép các linh mục kết hôn và cho phụ nữ được thụ phong linh mục thường bị nhầm lẫn và dựa trên những giả thuyết sai lầm rằng Giáo hội đang đàn áp những người có liên hệ. Đúng hơn, câu hỏi này nên được trả lời theo các giáo huấn và truyền thống lâu đời của Giáo Hội.

Để sống đúng với những lời dạy của Chúa Kitô và của Giáo hội Người. Đặc biệt sau khi xem chương trình Hỏi & Đáp vào một đêm hôm nọ, trong đó, một nhóm người thảo luận rất lâu về những gì Giáo Hội Công Giáo nên làm theo ý họ (tức là các linh mục không độc thân, các linh mục phụ nữ, nói cách khác theo kịp 'thời thế'), tôi nghĩ điều quan trọng hơn bao giờ hết là chúng ta không nên chịu khuất phục trước những kỳ vọng của những người muốn phá hủy gia đình, làm loãng và bóp méo sự thật, hoặc để ma quỷ nắm giữ xã hội.

Chào đón trở lại các linh mục đã bỏ đi kết hôn

Cùng với việc cho phép các linh mục kết hôn, một số người tham gia cũng cảm thấy Giáo hội nên chào đón các linh mục đã bỏ đi để kết hôn. Điều này chủ yếu vì hai lý do: một, người ta cảm thấy việc trở về của những người đàn ông này sẽ giúp tăng số lượng linh mục ở Úc, và hai, có những người đàn ông kết hôn phục vụ tại các giáo xứ sẽ lên sinh lực trở lại cho thừa tác mục vụ.

Chúng ta nên làm điều gì đó để có thêm nhiều linh mục hơn: a) phục hồi những người đàn ông đã bị buộc rời khỏi chức linh mục để kết hôn b) họ có thể tiếp tục nghề nghiệp của họ đang tham gia và cử hành Thánh lễ vào Chúa Nhật hoặc thường xuyên hơn nếu có thể.

Nhiều người cũng bình luận về việc Giáo hội dường như có tiêu chuẩn nước đôi trong việc cho phép các linh mục Anh giáo trở lại đạo giữ gia đình trong khi không cho phép các linh mục Công Giáo làm điều tương tự.

Tôi biết nhiều linh mục tốt lành, tận tụy và tài năng, những người phải tìm các thừa tác vụ khác ngoài Giáo hội vì họ chọn kết hôn, nhưng cộng đồng của chúng ta từng chấp nhận thừa tác vụ của các linh mục kết hôn trước đây ở Anh giáo, và chào đón gia đình của họ vào các cộng đồng của chúng ta. Điều này phi lý và bất công một cách lộ liễu đối với các linh mục Công Giáo, những người bị từ chối cùng những đặc ân như thế... Tôi tin rằng chúng ta được kêu gọi chấp nhận những thay đổi và phát triển cần thiết này đối với vai trò linh mục, vì lợi ích của Giáo hội và làm phong phú cho chính chức linh mục, một chức linh mục được rút ra từ cộng đồng cho cộng đồng.

Nhìn chung, có sự hỗ trợ tuyệt vời cho những người như vậy từ những người trong nhóm này, đặc biệt là từ những người đích thân biết các “cựu linh mục” và những người khác từng trải nghiệm thừa tác vụ của một cựu linh mục Anh giáo trong các giáo xứ Công Giáo của họ.

Truyền chức cho những người đàn ông có vợ (viri probati) làm linh mục

Truyền chức cho những người đàn ông có vợ, hay các Viri Probati như nhiều người gọi, làm linh mục là một khuyến nghị phổ biến khác. Nhiều người tham gia tin rằng điều này không chống lại giáo huấn của Giáo hội và nếu xét đến sự suy giảm liên tục về ơn gọi và cuộc tranh đấu để có việc cử hành thánh lễ thường xuyên ở các vùng nông thôn, thì việc này còn cần phải được khẩn cấp thực hiện.

Hãy chấp nhận và khuyến khích các ơn gọi vào chức linh mục thừa tác và vào hôn nhân được Thiên Chúa kêu gọi hơn là đòi hỏi chỉ có những người độc thân mới được phong chức: ơn gọi bước vào hôn nhân và chức linh mục thừa tác không bất tương thích và cả hai đều là ơn gọi.

Nhiều người đã rời bỏ chức tư tế hoặc chủng viện nhưng vẫn khao khát được phục vụ dân Chúa. Họ nên được chào đón vào hàng ngũ chức linh mục và được dành cơ hội để thực thi thừa tác vụ của họ. Những linh mục này có thể được tấn phong cho cộng đồng địa phương và sẽ giúp cho Thánh Thể có sẵn ở những vùng nông thôn nhỏ bé nơi các nhà thờ đang bị đóng cửa và giáo dân bị bỏ rơi, không có Bí tích Thánh Thể trong khu vực địa phương của họ. Việc phong chức sẽ có cho một thời kỳ định sẵn và những linh mục như vậy có thể tiếp tục công việc bình thường của họ trong khi phục vụ cộng đồng lúc được yêu cầu.

Một số người đàn ông đã kết hôn, cảm thấy được kêu gọi làm linh mục, cũng trả lời ủng hộ chính nghĩa này. Như một người tham gia đã giải thích:

Tôi biết rằng tôi được kêu gọi làm một người đàn ông có vợ: tôi có vợ, sáu đứa con và 18 đứa cháu. Tôi là một thành viên rất tích cực của hai giáo xứ, tôi cũng biết rằng tôi được kêu gọi làm linh mục. Tôi đã dành một thời gian trong hệ thống chủng viện nhưng tôi cũng biện phân thấy rằng tôi nên kết hôn. Tôi biết rằng Đức Giáo Hoàng của chúng ta đã yêu cầu các giám mục của ngài kết hợp các lý lẽ để phong chức cho những người đàn ông Công Giáo trưởng thành vào hàng linh mục. Điều này cần được thực hiện bởi các Giám mục Công Giáo Úc [Hội đồng] như một vấn đề ưu tiên hàng đầu và là vấn đề cấp bách.

Nhìn chung, các lý do để ủng hộ sự thay đổi này có rất nhiều, bao gồm việc đem Giáo hội tới chỗ kịp thời với xã hội Úc, trở lại với các truyền thống tiên khởi của Giáo hội, có các linh mục thích đáng để chăm sóc mục vụ hữu hiệu cho người ta, đem các truyền thống của Giáo hội cùng đường hướng với việc chấp nhận các linh mục Anh giáo kết hôn có gia đình và chấm dứt mô hình ơn gọi làm linh mục hầu như chỉ phát xuất từ những người đàn ông trẻ, chưa trưởng thành.

Cũng như các lĩnh vực khác, cũng có mối quan tâm từ một số người tham gia không quan tâm đến vấn đề này. Họ thấy việc ấy có vấn đề ít nhất là ở một số khía cạnh, chẳng hạn như con số cựu linh mục thực sự quyết định trở lại, những hứa hẹn nào với giám mục sẽ được mong đợi ở những người như vậy, giáo phận sẽ đối phó với những người đã ly dị sẽ như thế nào và những mong chờ hoặc nhu cầu của những người vợ và những đứa con của những người đàn ông này là gì.

womenpriests.jpg

Phong chức cho phụ nữ

Có sự hỗ trợ đáng kể của một nhóm nhiều người tham gia đối với việc phong chức cho phụ nữ. Phần lớn những người trong nhóm này ủng hộ ý niệm cả nam và nữ đã kết hôn làm linh mục.

Lý do chính được đưa ra bởi hầu hết những người tham gia để phong chức cho phụ nữ là biện hộ cho tính bao gồm và bình đẳng giới tính và nhu cầu nam nữ được đối xử bình đẳng và tham gia bình đẳng trong Giáo hội. Việc biện minh cho điều này phát xuất từ câu trích từ Thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Galát (3: 26-29), “không thể có chuyện nam hoặc nữ, vì anh em thẩy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô”, một câu trích được nhắc đến thường xuyên. Nhiều người tham gia thấy phụ nữ cũng có học thức, tài năng và có khả năng như đàn ông trong vai trò này.

Xem xét lại vai trò các nữ linh mục. Chúa tạo ra nam và nữ bình đẳng với nhau. Chính cấu trúc xã hội đã cho rằng phụ nữ không nên được phép trở thành đại diện của Chúa Kitô trên Trái đất.

Truyền chức cho phụ nữ, vai trò lãnh đạo của phụ nữ ở tất cả các bình diện của Giáo hội.

Phụ nữ đã cố tình bị hạn chế. Điều rất quan yếu là mở các cơ hội để có các nữ linh mục, phó tế và thừa tác viên Thánh thể (acolytes), chứ không chỉ sử dụng họ như các nhân viên hỗ trợ, như đọc sách, giáo lý viên, người cắm hoa, người giặt áo lễ và người dọn dẹp nhà thờ, trong khi nói với họ một cách cha chú rằng họ có giá trị xiết bao. Điều này sẽ không còn giá trị gì nữa. Vị thánh duy nhất của Úc là một người phụ nữ đã phải chiến đấu với phẩm trật để phuc vụ trẻ em và người nghèo. Do đó, bà đã bị tuyệt thông vì ‘bất tuân’ đối với những kẻ mang quyền lực thấy mình bị đe dọa.

Một số người tham gia cảm thấy việc loại bỏ phụ nữ khỏi chức linh mục là một sự kỳ thị hoàn toàn. Đối với những người khác, nó được coi là sự thống trị của nam giới và sự cao ngạo giáo sĩ. Có nhiều người tin rằng phụ nữ đã cố tình bị loại khỏi các cơ cấu quyền lực và các diễn trình ra quyết định, và xem việc truyền chức cho phụ nữ là một cách để khắc phục tình hình này.

Phụ nữ không tốt hơn đàn ông. Họ khác thôi: tài năng, kỹ năng và cách tiếp cận của họ bổ sung cho người đàn ông. Từ chối các chức vụ có quyền lực và trách nhiệm đối với phụ nữ do đó làm giảm khả năng của Giáo hội trong việc phục vụ người ta một cách thỏa đáng. Tập tục không cho phép phụ nữ chủ sự trong cử hành Bí tích Thánh Thể hoặc lãnh đạo cộng đồng không phát xuất từ Chúa Giêsu, nhưng do việc người ta quá nhấn mạnh vào truyền thống, vốn bỏ qua vai trò của văn hóa trong việc duy trì truyền thống đó.

Việc cấm các cuộc đàm luận xung quanh việc phong chức cho phụ nữ xúc phạm tới tất cả chúng ta. Nó cũng có tính lạm dụng. Một chủ nghĩa giáo sĩ trị cha chú và lạm dụng quyền lực. Việc bao gồm phụ nữ vào số các người được phong chức cần phải có trong cuộc đàm luật về các khả thể trong Giáo Hội Công Giáo, và không chỉ là đàm luận, mà còn là viễn kiến nữa. Đại đa số người ta không chỉ yêu cầu điều này, họ còn đòi hỏi điều đó... Không dấn thân vào cuộc đàm luận này sẽ là một sự thất bại về niềm tin mà Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta tới... Không nghiêm túc xem xét nghiêm túc việc phong chức cho phụ nữ sẽ khiến phẩm trật thành bất liên quan trong con mắt của số đông người càng ngày càng nhiều hơn... Chúng ta hãy lắng nghe. Rồi hãy để Giáo hội Úc của chúng ta trình bày lý lẽ một cách mạnh mẽ và bền bỉ với Vatican, bằng cách từ khước không chịu im lặng.

Những lý do khác để phong chức cho phụ nữ là để bổ sung con số giáo sĩ, cập nhật các giáo điều cũ xưa và đưa Giáo hội Úc phù hợp với vai trò đang thay đổi của phụ nữ trong xã hội. Một người tham gia đã nhận xét rằng phụ nữ là “lực lượng mạnh mẽ trong việc hỗ trợ người trẻ nắm vững đức tin”. Một số người tin rằng có các nữ linh mục sẽ giúp ngăn ngừa một số vấn đề lạm dụng và che đậy trong những năm qua.

Phụ nữ không nên làm linh mục

Trong khi có nhiều người ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ làm linh mục, một nhóm lớn cũng chống lại sự thay đổi này. Những người tham gia trong nhóm này tin rằng ý tưởng này trái với giáo huấn đích thực của Giáo hội.

Ý niệm linh mục nữ cũng không phản ảnh các giáo huấn đích thực của Giáo Hội Công Giáo. Chúa Kitô đã không chọn phụ nữ làm các tông đồ đầu tiên của Người và điều này không phải do Người không biết ý niệm này, vì ý niệm nữ tư tế khá phổ biến thời đó. Linh mục là đại diện của Thiên Chúa Cha, do đó, một người phụ nữ không thể làm linh mục, vì làm thế nào mà một người phụ nữ đại diện cho một người cha nếu cô ấy là phụ nữ?

Một số người tham gia trong nhóm này yêu cầu sự rõ ràng hơn trong việc giảng dạy về vai trò và ơn gọi của đàn ông và đàn bà và về bí tích chức linh mục.

Thay vì tập chú vào việc ‘đổi mới’ các bí tích và Giáo hội của chúng ta, cần phải có một sự hiểu biết đổi mới về đức tin, lịch sử, truyền thống và bản sắc Công Giáo. Giáo hội có lịch sử và nền thần học phong phú cần được khảo sát và truyền đạt đúng đắn trước khi chúng ta có thể thảo luận về 'việc đổi mới'... Cải thiện sự hiểu biết của chúng ta về phẩm trật của Giáo hội, vai trò đúng đắn của chức linh mục, vai trò của nam và nữ trong Giáo hội, và của toàn bộ nhiệm thể Chúa Kitô.

Một số người trong nhóm này ủng hộ việc mở rộng vai trò của phụ nữ sang các lĩnh vực lãnh đạo và quản trị khác trong Giáo hội và nhiều người ủng hộ việc đào tạo đức tin nhiều hơn và cần phải trung thành với các truyền thống của Giáo hội về phương diện này.

Kỳ sau: Lạm dụng tình dục và Ủy Ban Hoàng Gia

Vũ Văn An

Đọc nhiều nhất Bản in 26.02.2020 14:10